Tịnh Độ Đại Kinh Giải Diễn
Nghĩa
淨土大經解演義
phần 97
Chủ giảng: Lăo pháp sư Tịnh
Không
Thời gian: Ngày 5 tháng 04 năm 2010
Địa điểm: Hương Cảng
Phật Đà Giáo Dục Hiệp Hội
Chuyển ngữ:
Minh Tiến
Giảo chánh &
hiệu đính: Đức Phong, Như Ḥa, và Huệ Trang
Tập 193
“Tịnh
Ảnh Sớ viết: Pháp Tạng tự thuyết kỷ
nguyện, linh chư Bồ Tát học chi đồng phát” (Tịnh Ảnh Sớ chép: “Ngài Pháp Tạng
tự nói nguyện của ḿnh
xong khiến các Bồ Tát học theo Ngài cùng phát nguyện”).
Chúng ta hăy đọc tiếp câu kế: “Hựu Hội Sớ vân: Bồ Tát văn chi, tự
phát dũng mănh tâm, bỉ kư trượng phu, ngă diệc
nhĩ. Bỉ phát diệu nguyện, ngă bất nhĩ
hồ? Cố năng duyên chi măn túc đại nguyện dă” (Lại
nữa, sách Hội Sớ chép: “Bồ Tát nghe xong tự phát
tâm dũng mănh. Ông ta là trượng phu, ta cũng vậy, ông
ta đă phát nguyện nhiệm mầu, ta há chẳng
bằng ổng sao? V́ vậy, nguyện của Pháp Tạng
làm duyên để viên măn đại nguyện”). Trong phần
trên đă nói: Sau khi Pháp Tạng Bồ Tát kiến lập thế
giới Cực Lạc xong, đến gặp thầy là
Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai. Đương
nhiên thầy đă biết, chẳng nói thầy cũng
biết, quả vị Diệu Giác Phật không ǵ chẳng
biết, nên Thế Gian Tự Tại Vương Như Lai
khuyên Ngài hăy nên tuyên bố chuyện ấy với
đại chúng, khiến cho đại chúng hoan hỷ, mà
cũng khiến cho vô lượng chúng sanh đạt
được lợi ích thù thắng. Lợi ích ấy đích
xác là chân thật, trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói: “Một phen thoảng
qua tai, vĩnh viễn trở thành hạt giống
đạo”, bất luận ai thấy hoặc nghe
đều kết duyên với thế giới Cực
Lạc. Giáo pháp Đại Thừa thường nói “Phật chẳng độ kẻ
vô duyên”, quư vị nghe [nói tới] A Di Đà Phật, nh́n
thấy tượng A Di Đà Phật, đều là hữu
duyên. Do đó, lời khuyên này của Thế Gian Tự
Tại Vương Phật có dụng ư rất sâu, cũng là
nhằm giúp A Di Đà Phật phổ độ chúng sanh
khổ nạn trong sáu nẻo của các cơi Phật trọn
khắp pháp giới hư không giới. Duyên này sâu rộng
khôn sánh, nên sau khi đại chúng nghe xong, đặc
biệt là các vị Bồ Tát, cũng sẽ học theo
đại nguyện và đại hạnh của tỳ-kheo
Pháp Tạng.
Đoạn văn
này là do cụ Hoàng trích một câu từ Tịnh Ảnh Sớ:
“Pháp Tạng tự thuyết kỷ
nguyện, linh chư Bồ Tát học chi đồng phát” (ngài Pháp Tạng nói nguyện của ḿnh xong, khiến cho các
Bồ Tát học theo Ngài cùng phát nguyện). V́ Bồ Tát
đă phát Tứ Hoằng Thệ Nguyện, câu thứ
nhất trong Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện
độ”, đă phát nguyện xong, phải “độ” bằng cách nào? Nhất
định phải hợp tác với A Di Đà Phật th́ mới
có thể phổ độ chúng sanh. Không riêng hàng Bồ Tát
phát nguyện, mà chư Phật Như Lai cũng không
ngoại lệ, từ chỗ nào ta có thể thấy
được điều này? Mười phương ba đời
hết thảy chư Phật Như Lai phổ độ
chúng sanh, chẳng có vị nào không giảng kinh Vô
Lượng Thọ, chẳng có vị nào không giảng kinh
A Di Đà. Giảng những kinh ấy nhằm giúp A Di
Đà Phật tiếp dẫn chúng sanh văng sanh thế
giới Cực Lạc. V́ vậy, chư Phật
đều tham dự các đại hội giảng kinh ấy,
đây là pháp hội hy hữu, thù thắng khôn sánh trong
thế gian và xuất thế gian, chúng ta chớ nên không
biết điều này. Sách Hội Sớ nói rất rơ, quư
vị thấy các vị Bồ Tát đă nghe xong lời tường
thuật của tỳ-kheo Pháp Tạng, [ai nấy] đều
tự phát tâm dũng mănh. Các vị Bồ Tát ấy nghe xong
đều phát tâm dũng mănh. Quư vị thấy tỳ-kheo Pháp
Tạng đă thực hiện được, Ngài có
thể làm được, tại sao ta chẳng làm
được? Cho nên [sách Hội Sớ viết]: “Ông ta là trượng phu, ta
cũng vậy. Ông ta đă phát diệu nguyện, ta há
chẳng bằng ổng hay sao? Ta có thể không phát sao?”,
mang ư nghĩa ấy. “Ngài đă
phát nguyện rồi, ta có thể không phát sao?” V́ vậy,
nguyện của ngài Pháp Tạng làm duyên viên măn đại
nguyện; câu “măn túc vô
lượng đại nguyện” trong kinh văn
nghĩa là có thể làm tṛn hết thảy các chí nguyện.
Câu kế tiếp: “Hựu Văng Sanh Luận Chú vân: Măn túc văng sanh Tịnh
Độ nhất nguyện, tức nhất thiết chí
nguyện tất măn túc. Cố vân măn túc vô lượng
đại nguyện” (Lại nữa,
sách Văng Sanh Luận Chú viết: “Viên măn một nguyện văng
sanh Tịnh Độ chính là viên măn hết thảy các chí
nguyện, nên gọi là măn túc vô lượng đại
nguyện”), câu này vô cùng quan trọng. Sách Văng Sanh Luận Chú
do Đàm Loan đại sư soạn. Câu kế tiếp: “Ḥa bàn thác xuất chư Phật
tâm tủy” (giăi bày trọn vẹn tâm tủy của
chư Phật), nghĩa là chẳng giữ lại mảy
may nào, phô bày toàn bộ, ư nghĩa trong ấy, sâu rộng
không bờ mé! Chúng sanh trong mười phương thế
giới kể cả chúng ta, nếu hiểu rơ ràng sự
việc này, trong Đại Thừa gọi là “tham thấu”, há chúng ta có
thể chẳng phát nguyện văng sanh hay sao? Phát nguyện
văng sanh chính là “cùng tâm, cùng nguyện,
cùng đức, cùng hạnh với A Di Đà Phật”. Đấy
chính là [ư nghĩa được bao hàm trong] lời của
chư tổ sư đại đức đă nói ở
đây: Chỉ cần văng sanh Tịnh Độ, hết
thảy các nguyện đều viên măn! A Di Đà Phật là
người thay mặt chúng ta, Ngài phát ra bốn mươi
tám nguyện; văng sanh thế giới Cực Lạc th́
bốn mươi tám nguyện ấy sẽ viên măn. Nguyện
của A Di Đà Phật đă viên măn; khi chúng ta sanh về Tịnh
Độ, nguyện của chúng ta cũng sẽ viên măn. Do
vậy, tôi nói: “Cùng tâm, cùng
nguyện với A Di Đà Phật”. Do bốn
mươi tám nguyện của Ngài viên măn, nên bốn
mươi tám nguyện của chúng ta cũng sẽ viên măn;
v́ vậy, gọi là “măn túc vô
lượng đại nguyện”. Bốn mươi tám
nguyện nhiếp trọn hết thảy hoằng
nguyện của Bồ Tát. “Pháp
Tạng Bồ Tát ngũ kiếp tinh cần cầu sách chi
đại nguyện, chỉ vị chúng sanh năng chân
thật phát khởi văng sanh Tịnh Độ chi nhất
nguyện” (Pháp Tạng Bồ Tát trong cả năm
kiếp siêng gắng t́m cầu, chọn lọc [những ưu
điểm trong các cơi Phật thanh tịnh để kết
thành bốn mươi tám nguyện], thật ra chỉ là
một nguyện nhằm làm cho chúng sanh chân thật phát
khởi ư nguyện cầu văng sanh Tịnh Độ). Do đó,
chúng ta nhất tâm phát nguyện cầu sanh Tịnh
Độ, nguyện tâm ấy chính là tâm nguyện viên măn
của chư Phật, Bồ Tát. Câu thứ nhất trong
Tứ Hoằng Thệ Nguyện là “chúng sanh vô biên thệ nguyện độ”, chúng ta
phát một nguyện này th́ nguyện [độ vô biên chúng
sanh] liền viên măn, đúng là chẳng thể nghĩ bàn! Kinh
Hoa Nghiêm nói: “Một là hết
thảy, hết thảy là một”, hết thảy
chư Phật Như Lai, bốn mươi mốt địa
vị Pháp Thân đại sĩ trong pháp giới hư không
giới, hễ chúng sanh có cảm, các Ngài liền ứng. Chúng
sanh không biết mục đích của sự cảm
ứng, c̣n Phật, Bồ Tát đều biết rơ ràng,
chỉ có một mục đích duy nhất là khuyên nhủ
hết thảy chúng sanh hăy buông bỏ vạn duyên, nhất
tâm niệm Phật, cầu sanh Tịnh Độ. Đó là
phương hướng chung, mục tiêu chung. Chỉ
cần văng sanh về Tịnh Độ, quư vị sẽ
đạt được viên măn rốt ráo. Đấy là ư
nghĩa của đoạn này.
Tiếp đó, cụ Niệm Tổ nói: “Cố ngă bối mạt thế
phàm phu” (Cho nên những phàm phu đời Mạt chúng ta),
đây là nói tới các vị đồng học chúng ta trong
hiện tại. “Đản
năng măn túc thử nhất nguyện” (chỉ có
thể làm trọn một nguyện ấy), then chốt ở
hai chữ “măn túc” này. “Măn túc” nghĩa là ǵ? Thật
sự văng sanh là “măn túc”. Nếu
không văng sanh, sẽ chẳng có phần! Dù là văng sanh Hạ
Hạ Phẩm trong cơi Phàm Thánh Đồng Cư, quư vị
cũng trọn vẹn vô lượng đại nguyện.
Vô lượng đại nguyện của A Di Đà
Phật, vô lượng đại nguyện của chư
Phật Như Lai, vô lượng đại nguyện
của hết thảy Pháp Thân đại sĩ trong các cơi
nước chư Phật đều sẽ viên măn khi quư
vị văng sanh. Chuyện văng sanh này có khó hay không? Nay chúng ta
biết: Chẳng khó tí nào! Tại sao người niệm
Phật đông đảo, mà người văng sanh rất
ít? Thuở trước, khi tôi theo học kinh giáo với
thầy Lư, thầy thường nói như vậy. Đài
Trung Liên Xă ở Đài Loan do thầy sáng lập, liên
hữu ở đó có cả mấy trăm ngàn
người, thầy vô cùng cảm khái nói: “Trong các liên hữu ở Đài Trung Liên Xă, trong một
vạn người, chỉ có năm, ba người
thật sự văng sanh mà thôi!” Do nguyên nhân nào? V́ không
thể buông bỏ t́nh chấp thế gian, chưa thể buông
xuống tập khí phiền năo, c̣n có chuyện tham luyến;
do đó, không thể văng sanh Tịnh Độ. Đúng như
Thiện Đạo đại sư đă nói “vạn người tu, vạn
người đến”, người nào thật sự
buông xuống sẽ thành công. “Tức
dữ Di Đà đại nguyện tương ứng,
tiện nhập Nhất Thừa nguyện hải, tiện
dữ Di Đà đại nguyện đồng thể.
Cố vân, tức thị măn túc vô lượng đại
nguyện dă” (tức là tương ứng với Di Đà
đại nguyện, liền nhập Nhất Thừa
nguyện hải, liền có cùng một Thể với Di Đà
đại nguyện, nên mới nói: “Đầy đủ vô
lượng đại nguyện”). Văng sanh Tây Phương
Cực Lạc thế giới, chúng ta phải hỏi v́ sao chẳng
thể buông xuống được? Nói thật ra là v́ không
hiểu rơ, không nhận thức đầy đủ
[những sự tốt đẹp trong] Tây Phương
Cực Lạc thế giới. Nếu quả thật
hiểu rơ ràng, minh bạch, lẽ nào không buông xuống
được?
Khi tôi học Phật, lần đầu tiên gặp Chương Gia đại sư, [đấy là] lần đầu tiên gặp gỡ người xuất gia, tôi thỉnh giáo lăo nhân gia, Ngài dạy tôi “nh́n thấu, buông xuống”; bốn chữ này là bí quyết để khế nhập cảnh giới của Phật. Ngày đầu tiên gặp gỡ, Ngài liền dạy tôi [bốn chữ này]. Lúc đó tôi c̣n trẻ, chưa từng tiếp xúc Phật pháp, vừa nghe câu ấy, dường như nửa hiểu nửa không! Hai ba chục năm sau, tôi mới thật sự hiểu thấu câu này, thật sự hiểu rơ ràng, Ngài chẳng lừa gạt tôi. Phàm phu học Phật từ lúc mới phát tâm cho đến quả vị Như Lai chính là “nh́n thấu, buông xuống”, nh́n thấu suốt giúp quư vị buông xuống, buông xuống giúp quư vị nh́n thấu suốt. Hai pháp này giúp đỡ lẫn nhau, làm cho quư vị đạt đến rốt ráo viên măn. Pháp môn này cũng chẳng phải là ngoại lệ, cũng là “nh́n thấu, buông xuống”. “Phát Bồ Đề tâm, một mực chuyên niệm”, quư vị thấy chỉ có tám chữ đơn giản này! Phát Bồ Đề tâm là nh́n thấu suốt, Bồ Đề là Trí Huệ, chẳng lưu luyến thế gian này, không chấp trước nữa. Nhất tâm niệm Phật là buông xuống, buông xuống vạn duyên, nhất tâm chuyên niệm. Niệm bao lâu mới có thể văng sanh? Kinh Di Đà bảo ít nhất là một ngày, một ngày liền thành công; nhiều nhất là bảy ngày. Xin thưa cùng quư vị, chữ “bảy” này không phải là một con số, hiện thời chúng ta đều nghĩ nó là bảy ngày, chúng ta đả Phật Thất bảy ngày; thật ra, nó không phải là một con số. Một, hai, ba, bốn, năm, sáu là con số, “bảy” không phải là con số, “bảy” rất sống động, viên măn. “Bảy” nghĩa là ǵ? Nói tới “bốn phương, trên, dưới, chính giữa”, có nghĩa là viên măn. [Kinh nói “từ một đến bảy ngày”], ư nói thời gian dài ngắn do quư vị quyết định, chẳng do người nào khác; lúc nào thật sự buông xuống, lúc đó sẽ thành công. Niệm Phật mà vẫn c̣n vướng mắc thế gian này, vẫn c̣n có t́nh chấp, quư vị sẽ không thể văng sanh được! Ngày nào quư vị buông xuống được những vướng mắc ấy, ngày đó là ngày thứ bảy. Chữ “bảy” có nghĩa như vậy, triệt để buông xuống th́ gọi là “bảy”.
“Hà
đẳng phương tiện, hà đẳng trực
tiệp, tùng quả khởi tu, trực xu cứu cánh. Bất
khả tư nghị Tịnh Độ pháp môn” (Những ǵ là phương tiện,
những ǵ là đường thẳng tắt? Chính là từ quả khởi tu, thẳng
đến rốt ráo. Pháp môn Tịnh Độ thật
chẳng thể nghĩ bàn), những câu này rất quan
trọng. Trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, cũng không
thể t́m được pháp môn [nào khác] thuận tiện
như vậy, quả thật là t́m không ra, chỉ có một
pháp môn này. Thẳng tắt: Từ phàm phu một phẩm
phiền năo cũng chưa đoạn được, mà có
thể thành tựu ngay trong một đời này, pháp môn này
gọi là “pháp khó tin”. Tuy khó tin, nhưng dễ tu hành, dễ
thành tựu, nguyên nhân là ǵ? Hai câu trong đoạn văn trên
đây đă giải thích tại sao: “Tùng Quả khởi tu” (từ Quả khởi tu). A
Di Đà Phật là quả vị, chẳng phải là nhân. Dùng
quả giác (sự giác ngộ nơi quả) của
Phật Di Đà làm nhân tâm (cái tâm tu nhân) của chúng ta, nhân
quả chẳng hai, Di Đà là Tự Tánh Di Đà, Tịnh
Độ là Duy Tâm Tịnh Độ. Di Đà Tịnh
Độ từ đâu ra? Từ tự tánh của chúng ta
biến hiện ra. Trong giáo pháp Đại Thừa
thường nói: “Tâm ngoại
vô pháp, pháp ngoại vô tâm” (Ngoài tâm không có pháp, ngoài pháp
không có tâm), câu này có thể chứng minh, chẳng ĺa tự
tánh, chư Phật Như Lai cũng chẳng ĺa tự tánh;
ngạ quỷ, địa ngục cũng chẳng ĺa
tự tánh, tất cả đều do tâm hiện, thức
biến. Pháp môn này là từ Quả bắt đầu tu, măi
cho đến rốt ráo; “cứu
cánh” (rốt ráo, mục tiêu cuối cùng) là quả vị
Diệu Giác như kinh Hoa Nghiêm đă nói, quả thật là rốt
ráo viên măn! Pháp môn Tịnh Độ chẳng thể nghĩ
bàn này chẳng dễ ǵ gặp được, hy hữu
khó gặp! Phẩm thứ năm “Chí Tâm Tinh Tấn” chúng ta học đến đây
là hết. Tiếp theo đây, chúng ta xem tiếp phần quan
trọng nhất trong kinh Vô Lượng Thọ:
PHÁT ĐẠI THỆ
NGUYỆN ĐỆ LỤC.
發大誓願第六。
(Phẩm
thứ sáu: Phát đại thệ nguyện).
Thế Gian Tự Tại
Vương Như Lai khuyên tỳ-kheo Pháp Tạng hăy tuyên bố
với đại chúng [thệ nguyện của chính ḿnh]. Đây
là toàn bộ lời tường thuật do Thích Ca Mâu Ni Phật
thuật lại cho chúng ta nghe. Trước khi học toàn bộ
kinh văn của phẩm này, [chúng ta hăy coi] lời giới
thiệu của cụ Hoàng trong phần đầu nhằm
giới thiệu đại ư của phẩm này. Lời giới
thiệu rất hay, rất khó có! Những câu sau đây thuộc
phần Chú Giải, chúng ta xem nhé: “Bổn phẩm năi Pháp Tạng Bồ Tát tuân Phật
minh huấn, ư đại chúng trung, tuyên thuyết sở
phát thù thắng đại nguyện” (Phẩm này là do
Pháp Tạng Bồ Tát vâng theo lời dạy rơ ràng của đức
Phật, tuyên nói với đại chúng những đại
nguyện thù thắng của Ngài). Ngài đă phát nguyện ǵ?
Tuyên nói bốn mươi tám nguyện trứ danh [do chính Ngài
đă lập]. “Thử đại
thệ nguyện, diệu đức nan tư” (Diệu
đức của các đại thệ nguyện ấy khó
suy lường), câu này là lời đánh giá chung: Chẳng thể
nghĩ bàn! Tại sao? Chẳng biết đại nguyện
này đă giúp bao nhiêu chúng sanh trong lục đạo có thể
từ phàm phu thành Phật trong một đời. Cho nên
đức A Di Đà Phật được hết thảy
chư Phật xưng tụng: “Quang
trung cực tôn, Phật trung chi vương” (Ánh sáng tôn
quư nhất trong các ánh sáng, vua trong các vị Phật), đạo
lư là như vậy. Tất cả kinh giáo do mười
phương ba đời hết thảy chư Phật
đă nói đều chẳng thể sánh bằng bộ kinh
này. Hoa Nghiêm và Pháp Hoa đều chẳng sánh bằng, kinh này
là kinh bậc nhất trong nhà Phật. Kinh này không chỉ là
kinh bậc nhất trong các kinh do Thích Ca Mâu Ni Phật đă
nói, mà c̣n là kinh bậc nhất trong hết thảy các cơi
nước của chư Phật trọn khắp pháp giới
hư không giới. Nếu quư vị gặp được
pháp môn khác, chưa chắc quư vị đắc độ
trong một đời này. Nếu quư vị gặp
được pháp môn này, nhất định sẽ đắc
độ, nhất định sẽ thành Phật. Vấn
đề là quư vị chịu làm hay không, có thể y giáo phụng
hành hay không? Nếu quả thật có thể y giáo phụng
hành, quư vị sẽ thành công, nhất định chẳng
phải giả!
“Như
Chân Giải viết”
(Như sách Chân Giải viết), đây là sách của Nhật.
Nói thật ra, người Nhật Bản học kinh Vô
Lượng Thọ vượt trội người Trung Quốc,
chú giải [kinh Vô Lượng Thọ] của họ có tới
hai mươi mấy bộ. Chú giải kinh Vô Lượng
Thọ của cổ đại đức Trung Quốc chỉ
có hai bộ, phía trước đă tŕnh bày nguyên nhân rất
rơ ràng. Rất nhiều phiên bản [kinh này] được
truyền tới Trung Quốc, có mười hai bản dịch,
ngày nay, trong mười hai bản [dịch gốc], đă bị
thất truyền bảy bản, trong Đại Tạng
Kinh hiện nay chỉ giữ được năm bản.
Nếu muốn đọc hết năm bản ấy, quả
thật rất khó khăn, v́ trong quá khứ, kỹ thuật
ấn loát chưa phát triển, chẳng thuận tiện,
chẳng dễ ǵ kiếm được năm bản dịch
của kinh này. Do có sự hạn chế lớn như vậy,
nên mới cần hội tập [các bản dịch ấy].
Sau khi bản hội tập này được hoàn thành,
chúng tôi tin tưởng kinh Vô Lượng Thọ ở Trung
Quốc sẽ được đại chúng nhận biết
rộng răi và sốt sắng học tập. Sách Chân Giải
viết: “Tứ thập bát nguyện
công đức thành tựu, nhi quy nhất Chánh Giác, Chánh Giác
chi Thể tức thị
“Nhất Chánh Giác” cũng có nghĩa là các Ngài
đă thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Bốn
mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ đều gọi là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác, nhưng trong đó vẫn c̣n có một chút sai khác:
Tập khí vô thỉ vô minh chưa đoạn! Có trở ngại
hay không? Không trở ngại! Không trở ngại chút nào. Phải
biết vô thỉ vô minh chính là “khởi tâm, động niệm”.
Sơ Trụ Bồ Tát chẳng khởi tâm, không động
niệm, chẳng phân biệt, chẳng chấp trước;
do vậy, bốn mươi mốt địa vị Pháp
Thân đại sĩ đều thuộc cảnh giới
b́nh đẳng, chẳng sai khác, hoàn toàn b́nh đẳng!
Đọc đến
phần nguyện văn ở phía sau, chúng ta sẽ thấy
thế giới Cực Lạc chẳng có ǵ không b́nh đẳng,
ngay cả tướng mạo cũng b́nh đẳng,
tướng chuyển theo tâm mà! Trong thế giới của
chúng ta, tại sao tướng mạo không b́nh đẳng? V́
tâm tưởng khác nhau. Nếu hai người có tâm tưởng
vô cùng gần gũi th́ tướng mạo của họ sẽ
rất giống nhau, tướng từ tâm sanh mà! Tướng
mạo của người ở cơi Cực Lạc đều
giống nhau, đều giống như A Di Đà Phật,
tại sao vậy? Trong tâm của họ luôn nghĩ tới
một câu A Di Đà Phật; v́ thế, tướng mạo
của họ đều giống nhau. Khi đoạn dứt
một phẩm tập khí vô thỉ vô minh, họ liền chứng
quả vị Diệu Giác. Quả vị Diệu Giác không trụ
trong cơi Thật Báo. Quả vị Diệu Giác sẽ trở
về cơi Thường Tịch Quang. V́ lẽ đó, những
người tu hành trong cơi Thật Báo Trang Nghiêm đều
là bốn mươi mốt địa vị Pháp Thân đại
sĩ, các Ngài trụ trong Tịnh Độ thật sự,
tức Nhất Chân pháp giới. Do đó, quy về một
Chánh Giác. Cơi Đồng Cư và cơi Phương Tiện
cũng quy về một Chánh Giác, điều này chẳng thể
nghĩ bàn; tới phần nguyện văn ở phía sau
chúng ta sẽ thấy, thật sự là chẳng thể
nghĩ bàn. Thể của Chánh Giác là danh hiệu Phật, tức
sáu chữ hồng danh, trong đó, Nam Mô có nghĩa là quy y, [Nam
Mô A Di Đà Phật] là quy y A Di Đà Phật. Quy nghĩa là
quay đầu, từ mê hoặc, điên đảo, thật
sự giác ngộ quay về nương tựa A Di Đà Phật.
Sự nương tựa này đă vững chắc rồi,
quư vị sẽ hoàn toàn giống như A Di Đà Phật,
chính ḿnh không hay không biết cũng biến thành hóa thân của
A Di Đà Phật, đó gọi là Hoằng Thệ Bổn
Thừa Hải. Chữ Hải sánh ví lời thệ nguyện
ấy sâu rộng vô bờ bến. Bổn Thừa chính là Nhất
Thừa. Thệ nguyện của A Di Đà Phật không nhằm
mục đích mong mỏi quư vị quư vị đến thế
giới Cực Lạc làm A La Hán hay làm Bồ Tát; mà là [hy vọng]
quư vị đến thế giới Cực Lạc bèn chứng
đắc Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, tức
quả vị Phật rốt ráo viên măn. Do vậy, cũng gọi
là Bi Nguyện Nhất Thừa, Bi là đại bi,
thương xót hết thảy chúng sanh. Đó chính là công
đức của Di Đà Chánh Giác vậy.
Kế đó, sách
viết: “Chánh Giác công đức
bất khả tư nghị giả, do thệ nguyện bất
khả tư nghị” (Công đức của Chánh Giác chẳng
thể nghĩ bàn v́ thệ nguyện chẳng thể
nghĩ bàn). “Thị dĩ Hành
Quyển dĩ tạp lục cú thán thệ nguyện bất
khả tư nghị, dĩ chương” (Do vậy, sách
Hành Quyển dùng đến ba
mươi sáu câu để khen ngợi thệ nguyện
chẳng thể nghĩ bàn, nhằm hiển dương
[công đức rộng lớn của Chánh Giác]) Chữ
Chương (彰) có nghĩa
là hiển dương, chúng ta gọi là “tuyên dương”,
làm cho đại chúng đều biết “công đức Chánh Giác chẳng thể nghĩ bàn”.
Đoạn này được trích lục rút gọn như
sau: “Văn viết: Kính
bạch thân nhất thiết văng sanh nhân đẳng” (Lời
văn như sau: “Kính cẩn bày tỏ cùng hết thảy những
người văng sanh”). Nói với những người văng
sanh thế giới Cực Lạc, đương nhiên
cũng là nói với những người thật sự
muốn phát tâm cầu sanh về thế giới Cực
Lạc, nói với họ. Chữ “thân” (申) nghĩa là ǵ? Nói theo cách bây giờ, “thân” nghĩa là “trịnh
trọng bày tỏ”, có nghĩa là giải thích cặn kẽ.
Đối với hết thảy những người văng
sanh, trịnh trọng bày tỏ, giải thích cặn kẽ.
“Hoằng thệ Nhất
Thừa hải” là nói hết thảy chúng sanh b́nh
đẳng thành Phật, chẳng phải là một, hai
người! Phải biết, những người phát
nguyện văng sanh Tây Phương Cực Lạc thế
giới trong mỗi thế giới khắp mười
phương thế giới, mỗi ngày có bao nhiêu
người văng sanh thế giới Cực Lạc? Chẳng
có cách nào tính được v́ con số đó quá ư là
nhiều! Sanh về đó làm ǵ? Đều là để
thành Phật. Đây là sự trang nghiêm tốt đẹp xiết
bao, những sự tốt đẹp trong cơi người
và cơi trời cũng không có cách chi sánh bằng, nhưng
người ta thường chẳng biết việc này.
Câu kế đó rất
hay: “Thành tựu vô ngại vô
biên tối thắng thâm diệu bất khả thuyết, bất
khả xưng, bất khả tư nghị chí đức”
(thành tựu đức cùng
tột sâu mầu chẳng thể nói, chẳng thể khen,
chẳng thể nghĩ bàn thù thắng nhất). Chúng ta nói
đến công đức, “chí
đức” là ǵ? Công đức rốt ráo viên măn. Do
đó, văng sanh cơi Cực Lạc, quư vị sẽ chứng
đắc đại viên măn! Hạ Hạ phẩm văng sanh
cũng vậy, quư vị thấy việc này khó
dường nào! Bồ Tát tu đến cảnh giới ấy
th́ phải tu tới kiếp nào? Tu hành vô lượng
kiếp; nhưng trong pháp môn này, trong ṿng một thời gian
rất ngắn, quư vị sẽ thành tựu, “nhược nhất nhật,
nhược nhị nhật, nhược tam nhật”,
chúng tôi đều đă từng chứng kiến. Tôi đă
thấy một người có thể văng sanh trong ṿng ba
ngày, thật đấy, chẳng giả đâu! Tôi đă
gặp ở Mỹ. Một Hoa kiều là ông Châu Quảng
Đại mở xưởng bánh ḿ, bị bệnh ung
thư, [bác sĩ] trong bệnh viện tuyên bố [bệnh
t́nh] đă đến mức chẳng c̣n cách nào chữa
trị được nữa, bảo người nhà nên
chở ông ta về nhà lo liệu. Ông ta chỉ c̣n sống
được một hai tuần nữa, tế bào ung
thư đă lan tràn khiến ông ta vô cùng đau đớn. Cả
đời ông ta chẳng tin tôn giáo nào hết, lúc ấy
đă đến đường cùng, đúng là “bệnh ngặt, vái tứ
phương”, người nhà đi khắp nơi
để cầu thần, lạy Phật, coi thử
kỳ tích có xuất hiện hay không. Khi ấy, ở nơi
đó chúng tôi có một hội Phật Giáo, tức Phật
Giáo Hoa Phủ Hội (hội Phật giáo Washington), họ
t́m đến hội Phật Giáo này. Các vị đồng
tu ở đó cũng giỏi lắm, cử vài
người đến nhà trợ niệm và khuyên bảo ông
ta: “Thế giới này khổ quá! Nay ông đă bệnh
tới mức này, cơ hội lành bệnh rất khó”,
họ khuyên ông ta hăy cầu sanh thế giới Cực
Lạc. Ông ta có thiện căn sâu dầy, sau khi nghe họ
khuyên, chẳng phản đối, mà c̣n nghe theo. Ông ta bảo
người nhà đừng t́m cách chữa trị nữa,
mọi người hăy cùng niệm Phật giúp ông ta văng
sanh. Người nhà cũng nghe theo, cả nhà niệm
Phật cho ông ta, niệm chưa tới nửa ngày ông ta bèn
cảm thấy không đau đớn ǵ nữa, cảm
thấy vô cùng kỳ lạ! Căn bệnh ấy vốn
rất đau đớn, nhưng tới lúc đó không c̣n
đau nữa, cũng chẳng cần phải chích morphine,
chẳng cần ǵ cả. Ông ta cũng niệm theo mọi
nguời, ba ngày sau được đức Phật
đến tiếp dẫn. Kinh Di Đà nói “từ một ngày đến bảy ngày”, ông ta niệm
ba ngày bèn ra đi. Trước đó, ông ta chẳng tin tôn
giáo nào cả! Sau khi văng sanh, toàn thân mềm mại, tướng
lành hiếm có, tạo chứng cớ cho người
niệm Phật chúng ta. Đối với t́nh huống
ở thế giới Cực Lạc ông ta chẳng hiểu
ǵ hết, nhưng đến lúc ấy chẳng c̣n cách nào
khác, ngoài con đường [niệm Phật cầu văng
sanh] này, không c̣n đường nào khác. Đây là duyên
phận đời trước đến lúc đó đă
chín muồi, vừa nghe nói đến [pháp môn Niệm
Phật] liền tin tưởng, liền tiếp nhận,
liền thật sự phát nguyện niệm Phật cùng
mọi người, phù hợp với câu “phát Bồ Đề tâm, nhất hướng chuyên
niệm” trong kinh Vô Lượng Thọ. Đến thế
giới Cực Lạc, ông ta mới thật sự biết
được đức cùng tột sâu mầu vô ngại,
vô biên, chẳng thể nói, chẳng thể khen, chẳng
thể nghĩ bàn thù thắng nhất. Đến thế
giới Cực Lạc, ông ta bèn biết được, thù
thắng hy hữu!
Câu kế tiếp: “Hà dĩ cố? Thệ nguyện
bất khả tư nghị cố” (Tại sao vậy?
V́ thệ nguyện chẳng thể nghĩ bàn). Học xong phẩm kinh này,
quư vị sẽ hoàn toàn hiểu rơ, đúng là chẳng
thể nghĩ bàn. “Bi nguyện
dụ như đại hư không, chư diệu công
đức quảng vô biên cố” (bi nguyện ví như
hư không to lớn, các công đức mầu nhiệm rộng
lớn vô biên), ḷng từ bi của A Di Đà Phật là
thật, chẳng giả, từ bi trọn khắp pháp
giới, nên dùng hư không để tỷ dụ. “Chư diệu công đức
quảng vô biên cố”, công đức này có thêm chữ “chư diệu”, “chư” (諸) nghĩa
là vô lượng vô biên công đức. “Diệu” (妙) là ǵ? Diệu là không khởi tâm, không
động niệm, không phân biệt, không chấp
trước, [lúc đó], những công đức ấy bèn
hiện tiền, không chỉ hiện ra mà c̣n
được thọ dụng. Công đức từ
đâu mà có? Trong tự tánh vốn sẵn có, vốn
đầy đủ, chẳng phải đến từ bên
ngoài. Tức là như trong kinh Hoa Nghiêm, đức Phật đă
nói: “Hết thảy chúng sanh
đều có trí huệ và đức tướng của
Như Lai”, “đức”
là công đức, “tướng”
là tướng hảo. Vô lượng vô biên tướng
hảo đều vốn sẵn có trong tự tánh,
chẳng cần phải t́m cầu từ bên ngoài, cầu
từ bên ngoài cũng chẳng cầu được. Những
ǵ cầu được cũng là tương tự; nói
cách khác, chúng là giả, chẳng thật! Công đức chân
thật là vốn sẵn có trong tự tánh.
Nếu chúng ta thật sự
khẳng định câu này, chẳng nghi ngờ câu nói này của
Phật một tí nào, chúng ta nhất tâm niệm A Di Đà
Phật, công đức ǵ cũng buông xuống hết. Tại
sao vậy? Câu A Di Đà Phật này là ch́a khóa để mở
kho tàng công đức, chúng ta có thể mở trí huệ công
đức vốn sẵn trọn đủ trong tự
tánh, chẳng phải nhờ tới vật ǵ khác. Pháp môn
này khó tin, thật sự khó tin. Cho nên nhiều người
niệm Phật c̣n muốn tu tập, tích lũy hết
thảy công đức; thật ra, tu tập, tích lũy
những công đức ấy, khi đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới mới biết
đều là tốn công vô ích. Những công đức quư
vị thấy được, tiếp xúc, hưởng thụ
khi đến thế giới Cực Lạc vốn
chẳng phải là những công đức do quư vị tu
được, những thứ đó đều hoàn toàn
chẳng dùng đến! Thật đấy, chẳng giả
đâu! Công đức vốn sẵn có trong tự tánh
mới gọi là “diệu”! Chúng
ta có tu như thế nào đi nữa cũng chẳng tu
được, thứ ǵ cũng đều có sẵn,
chẳng cần t́m kiếm bên ngoài. [Hiểu như vậy],
tâm chúng ta mới định được. Khi tâm
định, trong tâm chẳng có vọng tưởng, phân
biệt, chấp trước, tâm ấy tự tại, viên
măn biết bao, đó là “thanh
tịnh, b́nh đẳng, giác” trong tựa đề kinh
này.
“Đại
xa” (cỗ xe lớn) là tỷ dụ. “Năi chí do như đại phong” (cho đến
như cơn gió lớn), câu này cũng là tỷ dụ. Xe
lớn là ǵ? Có thể rộng độ chúng sanh, xe lớn
chở được nhiều người. Gió tỷ
dụ “tự tại”, gió chẳng bị chướng
ngại, gió thổi trong không trung chẳng chướng
ngại. “Phổ hành thế
gian vô sở ngại cố” (đi khắp thế gian
chẳng bị chướng ngại), gió lớn tỷ sự “không chướng
ngại”. “Năng xuất tam
hữu hệ phược thành” (vượt khỏi
thành Tam Hữu trói buộc), “tam
hữu” là tam giới, Dục Giới Hữu, Sắc
Giới Hữu, Vô Sắc Giới Hữu, hữu cái ǵ? Có
nhân, có duyên, có nhân có duyên rồi sẽ có quả báo; do
đó, Tam Hữu là lục đạo. Có thể ra khỏi
thành tam hữu trói buộc nghĩa là có thể thoát khỏi
lục đạo luân hồi. “Năi
chí khai hiển phương tiện tạng” (cho đến
khai hiển phương tiện tạng), phi thường
quá! “Tạng” là nói theo mặt
Sự, ngày nay chúng ta nói tới Đại Tạng Kinh, đấy
cũng chính là những pháp do hết thảy chư Phật
đă giảng. Tại sao gọi là phương tiện? Chư
Phật ứng hóa trong thế gian, tùy thuận căn cơ
để ban bố sự giáo hóa, chẳng có pháp tắc nhất
định, các Ngài chẳng hiện tướng nhất
định. Nên dùng thân ǵ để độ, bèn hiện
thân ấy, đó gọi là “phương tiện”. Nên nói pháp
môn ǵ cho quư vị, Ngài liền giảng pháp môn ấy,
chẳng có pháp nhất định nào để nói, tại
sao vậy? V́ căn tánh khác nhau. Chư Phật, Pháp Thân
đại sĩ rất lợi hại, vừa gặp quư
vị, các Ngài liền biết những chuyện trong
nhiều đời quá khứ của quư vị; do đó,
các Ngài đều có thể quán sát căn cơ. Trong đời
quá khứ, quư vị đă học tập pháp môn ǵ, các Ngài
dạy dỗ quư vị nhất định sẽ dạy
tương ứng với những ǵ quư vị đă
học trong quá khứ, tại sao vậy? V́ quư vị
sẽ rất vui thích tiếp nhận, rất thích học
tập. Cái gọi là “tám vạn bốn ngàn pháp môn” hay “vô
lượng pháp môn” đều gọi là “phương tiện tạng”. Phương
tiện khéo léo mới có thể phổ độ chúng sanh. Phương
tiện chẳng ĺa chân thật, từ chân thật mở
ra các phương tiện, dùng phương pháp khéo léo
đễ dẫn dụ quư vị về Nhất Thừa.
Như trong hôm qua, chúng ta đă
học một đoạn trong kinh Pháp Hoa “hội tam quy nhất”, đức Thế Tôn dạy
học khéo léo, quư vị thấy Ngài dạy Tiểu
Thừa trước, quư vị học rất dễ. Nếu
Ngài dạy Đại Thừa trước, quư vị nghe sẽ
không hiểu, sẽ chẳng có hứng thú nghe. V́ vậy, Ngài
phải dùng mười hai năm để vun bồi, dành
mười hai năm giảng kinh A Hàm. Giảng
Phương Đẳng, Phương Đẳng là sơ
cấp Đại Thừa, mất hết tám năm. Phương
Đẳng cộng với A Hàm thành hai mươi năm. Trong
hội giảng kinh của Thích Ca Mâu Ni Phật, [các đệ
tử đă] học hết hai mươi năm, đă khá
rồi, đức Phật giảng Đại Thừa quư
vị mới có thể tiếp nhận. Đại
Thừa là ǵ? Bát Nhă, giảng kinh Bát Nhă hết hai
mươi hai năm. Một đời đức Thế
Tôn dạy bốn mươi chín năm, quư vị nghĩ xem
Bát Nhă mất hết hai mươi hai năm, Bát Nhă là khóa
tŕnh chính yếu trong cả đời dạy học
của đức Thế Tôn. Bát Nhă nhằm giảng cho quư
vị lẽ chân thật, lẽ chân thật là ǵ? Hết
thảy các pháp, pháp thế gian và xuất thế gian, “vô sở hữu, tất cánh
không, bất khả đắc” (chẳng có sở
hữu, rốt ráo là không, chẳng thể được),
dùng hết hai mươi hai năm để giảng rơ
sự việc này. Khi quư vị đă thông suốt rồi
mới có thể buông xuống! Hết thảy pháp chẳng
có sở hữu, rốt ráo là không, chẳng thể
được, vậy th́ quư vị c̣n chấp
trước ǵ nữa? Khi quư vị buông xuống
được sẽ là Nhất Thừa, “hội tam quy nhất” (gộp tam thừa về
nhất thừa). Kinh Pháp Hoa dạy quư vị chứng, tức
là đích thân chứng Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác.
Kinh Pháp Hoa và kinh Hoa Nghiêm
đều thuộc Nhất Thừa. Thời đại Tùy
- Đường, các tổ sư đại đức
công nhận: Trong hết thảy kinh do đức Phật
đă thuyết giảng, kinh Nhất Thừa gồm có ba
bộ là Hoa Nghiêm, Pháp Hoa, và Phạm Vơng. Kinh Phạm Vơng
chưa truyền đến Trung Quốc [toàn bộ],
chỉ truyền một phẩm, tức là phẩm Phạm
Vơng Bồ Tát Giới, chỉ có một phẩm này, trọn
bộ kinh chưa truyền tới Trung Quốc. Trong
Nhất Thừa lại c̣n Nhất Thừa, đây cũng
là điều các tổ sư đại đức thời
Tùy - Đường phát hiện, Nhất Thừa [trong
Nhất Thừa] ấy là ǵ? Đó là Tŕ Danh Niệm
Phật, văng sanh Tịnh Độ. Các Ngài nói như vậy
là có căn cứ, chẳng phải là nói tùy tiện. Kinh Hoa
Nghiêm tới cuối cùng, mười đại nguyện
của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực
Lạc. Lại xem năm mươi ba lần tham học
của Thiện Tài đồng tử, chúng ta sẽ
hiểu, Thiện Tài là đệ tử “nhập thất” của Văn Thù Bồ Tát,
nghĩa là đệ tử truyền pháp, chẳng phải là
người thường, những ǵ Ngài học, Ngài tu
chắc chắn giống như thầy. Trong kinh Hoa Nghiêm
chúng ta thấy, Văn Thù và Phổ Hiền đều phát
nguyện cầu sanh Tịnh Độ, vậy th́ Thiện
Tài có thể ra ngoài lệ ấy hay sao? Do đó, Ngài
đại triệt đại ngộ trong hội của
Văn Thù Bồ Tát, minh tâm kiến tánh, cũng có nghĩa là
chứng Sơ Trụ và vượt thoát mười pháp
giới. Văn Thù Bồ Tát cho Ngài đi tham học,
giới thiệu vị thiện tri thức thứ nhất
là tỳ-kheo Cát Tường Vân; đây là một vị
Sơ Trụ Bồ Tát. Nếu Thiện Tài chưa
đạt đến Sơ Trụ, sẽ chẳng gặp
được Sơ Trụ Bồ Tát. V́ vậy, mỗi
vị thiện tri thức mà Thiện Tài đến
gặp, chứng đến quả vị nào, chúng ta
liền biết lúc ấy Thiện Tài đồng tử
đă chứng đến quả vị đó. Tỳ-kheo Cát
Tường Vân tu pháp môn ǵ? Ngài tu Ban Châu Tam Muội, chuyên
niệm A Di Đà Phật cầu sanh thế giới
Cực Lạc, đây là vị thiện tri thức thứ
nhất. “Đệ nhất”
được biểu thị giống nhau ở Trung
Quốc và cổ Ấn Độ, đúng như câu nói “tiên nhập vi chủ”
(những ǵ đầu tiên đều là chủ yếu). Chúng
ta xem tiếp vị thiện tri thức thứ năm
mươi ba, mười đại nguyện vương
của Phổ Hiền Bồ Tát dẫn về Cực
Lạc. Quư vị nh́n vào vị thứ nhất và vị
cuối cùng sẽ hiểu rơ. Kinh Hoa Nghiêm đến cuối
cùng dạy tu pháp môn ǵ? Tu niệm Phật cầu sanh
Tịnh Độ, tuyệt diệu quá, điều này đă
ban chúng ta một khải thị rất lớn!
Chúng ta, ngay chính bản thân tôi,
chẳng phải là kẻ thượng căn, chúng ta
đều là hạng trung, hạ căn, cứ
tưởng những điều ḿnh nghĩ đều là
chính xác, đều đúng hết, đi ṿng vo thật lâu,
đi lầm hết bao nhiêu con đường oan uổng,
hai chục, ba chục năm sau mới tin pháp môn Tịnh
Độ. Lúc trước chẳng tin, thầy khuyên nhủ,
tôi luôn phản đối, vẫn không chịu học. V́
sao [bây giờ] tôi lại tin? Nhờ tôi giảng kinh Hoa
Nghiêm nên mới chịu tin, giảng kinh Hoa Nghiêm
được phân nửa, có một hôm đột nhiên suy
nghĩ Văn Thù, Phổ Hiền tu pháp môn ǵ, Thiện Tài
đồng tử tu pháp môn ǵ. Lúc đó, tôi giảng kinh Hoa
Nghiêm, giảng Bát Thập và Tứ Thập Hoa Nghiêm cùng lúc,
mỗi tuần giảng ba ngày, hai ngày giảng Bát Thập
Hoa Nghiêm, một ngày giảng Tứ Thập Hoa Nghiêm. Giảng
được mười mấy năm, giảng
được phân nửa, đột nhiên nghĩ tới
vấn đề này nên mới đi t́m [câu trả
lời], t́m tới phần sau, đọc tới
đoạn kinh này liền rởn ốc, [tự hỏi] tại
sao Văn Thù và Phổ Hiền đều cầu sanh thế
giới Cực Lạc? Lại chú tâm xem [phần kinh văn
nói về] Thiện Tài đồng tử. Quư vị thấy
tôi giảng hết nửa bộ Tứ Thập Hoa Nghiêm mà
vẫn chưa phát hiện điều này, chỉ dựa
theo chú giải của cổ nhân để giảng, chẳng
nh́n thấy chân tướng sự thật. Sau đó, chú tâm
t́m kiếm mới hiểu rơ, mới hoát nhiên đại
ngộ. Sự biểu thị pháp này là: Mở đầu bằng
Tịnh Tông, kết thúc cũng bằng Tịnh Tông. Sau
đó mới hoàn toàn hiểu rơ năm mươi mốt địa
vị ở giữa, mới hiểu ư nghĩa từ
ngữ “luyến đức lễ
từ” trong kinh văn. “Luyến
đức lễ từ” nghĩa là ǵ? Tôi tham học
vị thiện tri thức này, nghe Ngài báo cáo, thuật
lại pháp môn tu học của chính Ngài, tôi hoàn toàn hiểu
rơ, cảm tạ Ngài, đó là “luyến
đức”. Tôi được Ngài giáo dục nên cảm
ơn Ngài. “Lễ từ” nghĩa
là ǵ? Tôi không học theo pháp môn của Ngài, học xong tôi
vẫn theo pháp môn Niệm Phật, một câu A Di Đà
Phật niệm đến cùng. Pháp môn của Ngài dạy là
một trong tám vạn bốn ngàn pháp môn, tôi đều
biết hết, nhưng chẳng học theo, tôi vẫn
thật thà tu pháp môn Niệm Phật, “từ” có ư nghĩa như vậy! Hiểu rơ ràng,
minh bạch rồi, mới biết hàm ư trong mỗi chữ
mỗi câu đều rất sâu. Do đó, mới biết
Văn Thù, Phổ Hiền, Thiện Tài đều tu một
câu A Di Đà Phật, niệm tới cùng. Những kinh
điển Nhất Thừa như Hoa Nghiêm và Pháp Hoa
đến cuối cùng đều quy về kinh Vô
Lượng Thọ. Kinh Vô Lượng Thọ chính là
Nhất Thừa trong Nhất Thừa. Đến đây
cũng coi như chúng ta đă nhận biết, hiểu
được [giá trị] kinh này. Không nhận biết, sẽ
học rất khó khăn; đă nhận thức sẽ
rất thuận tiện, mới cam tâm một ḷng học
tập.
V́ sao tôi vẫn giảng các kinh
khác? V́ hiện nay Phật pháp suy thoái, tám tông phái Đại
Thừa chỉ là hư danh, trong mỗi tông phái không có
người thật sự tu hành. Lăo cư sĩ Hoàng
Niệm Tổ nói với tôi rất nhiều [về
chuyện này]. Hiện thời, ở Trung Quốc chỉ có
ba tông phái là Thiền Tông, Tịnh Độ Tông, và Mật
Tông. Thiên Thai và Hiền Thủ chẳng c̣n có người
nữa, các tông phái khác càng chẳng cần bàn tới. Vả
lại, thật sự có thể thành tựu th́ chỉ có
Tịnh Độ. Cụ Hoàng kể với tôi, cụ
học Thiền với lăo ḥa thượng Hư Vân, cụ
cũng từng học Mật, nhưng đều chẳng
thể thành tựu. Đến cuối cùng, lúc [sắp] văng
sanh, cụ bảo tôi, mỗi ngày niệm Phật
mười bốn vạn tiếng, [niệm theo lối]
truy đảnh niệm Phật, Phật hiệu chẳng
dứt, mỗi ngày niệm mười bốn vạn
tiếng. Cụ niệm Phật văng sanh. Nếu chúng ta có
duyên, cũng nên giúp đỡ các tông phái khác, v́ sao? Đều
là phương tiện tiếp dẫn. Nhưng bất
luận tu học pháp môn nào, đến cuối cùng,
nhất định phải là niệm Phật mới thành
tựu, không niệm Phật sẽ chẳng thể thành
tựu. Nếu không niệm Phật, tu học hết
thảy các pháp môn sẽ đều giống như hiện
nay thường gọi là “Phật
học”, nói rơ hơn một chút tức là [thâu thập]
kiến thức về Phật học, đấy chẳng
phải là trí huệ, họ không thể buông xuống! Thật
sự buông xuống được th́ mới là trí huệ;
buông xuống không được sẽ là tri thức (kiến
thức). Tri thức không thể liễu sanh tử,
chẳng thể thoát tam giới; có trí huệ th́ mới có
thể vượt thoát tam giới, trí huệ mới
thật sự là “phương
tiện tạng”. “Lương
khả phụng tŕ, đặc khả đảnh đới
dă” (thật đáng phụng tŕ, thật đáng cúi
lạy, nhận lấy vậy), đoạn trên đây đă
giới thiệu đơn giản công đức
bổn nguyện Di Đà.
Tiếp đó, lại cần
phải nói rơ: “Chí ư
nguyện văn đa quả, chư dịch phả
hữu sai dị” (Về phần nguyện văn
nhiều hay ít, các bản dịch đều khá sai khác). Thông
thường, chúng ta nói bốn mươi tám nguyện. Bốn
mươi tám nguyện là nói theo bản dịch thời Tào
Ngụy của ngài Khang Tăng Khải. Thời Tam
Quốc, Tào Tháo [sáng lập nước] Ngụy, lúc đó ngài
Khang Tăng Khải trụ ở nước Ngụy
dịch kinh này, nên bản dịch ấy gọi là bản
Ngụy dịch. Trong năm bản dịch, tức là
năm bản dịch kinh này hiện vẫn c̣n, bản
Ngụy dịch được lưu thông nhiều
nhất. Lúc trước, tôi có học [kinh Vô Lượng Thọ],
dùng bản dịch của ngài Khang Tăng Khải, trong
ấy có bốn mươi tám nguyện. Do đó, mọi
người đều quen biết bốn mươi tám
nguyện. Thật ra, trong năm bản dịch, nguyện
văn nhiều hay ít khác nhau, có bản ghi hai mươi
bốn nguyện, có bản ghi ba mươi sáu nguyện,
ở đây chỉ giới thiệu đơn giản
như vậy. “Hán Ngô
lưỡng dịch đồng vi nhập tứ
nguyện, thả kinh trung minh ngôn tiện kết
đắc nhị thập tứ nguyện kinh” (Hai bản Hán dịch và Ngô dịch cùng ghi
hai mươi bốn nguyện, trong kinh c̣n ghi rơ: “Liền kết được hai mươi
bốn nguyện”), trong kinh văn có câu này. Bản Tống
dịch ghi ba mươi sáu nguyện. Bản Ngụy
dịch và Đường dịch ghi bốn mươi tám
nguyện. “Chí ư Hậu
Xuất A Di Đà Kệ Kinh” (c̣n như Hậu Xuất A
Di Đà Kệ kinh), trong bộ kinh ấy có câu “thệ nguyện nhị thập tứ chương,
khả kiến nhị thập tứ nguyện ư chư
kinh trung thật cư đa số” (thệ nguyện
gồm hai mươi bốn chương, có thể
thấy phần đông các kinh đều ghi hai mươi
bốn nguyện). Ba bản dịch ghi hai mươi
bốn nguyện, hai bản dịch ghi bốn mươi
tám nguyện, chỉ có một bản dịch ghi ba
mươi sáu nguyện; do đó, hai mươi bốn
nguyện chiếm đa số. “Đản
thế gian lưu thông giả, chỉ thị Ngụy dịch.
Cố thế nhân thục tri tứ thập bát, nhi hăn văn
nhị thập tứ nguyện dă” (Nhưng v́ bản
Ngụy dịch được lưu thông rất rộng,
nên người đời quen thuộc bốn mươi
tám nguyện, ít nghe nói tới hai mươi bốn
nguyện). Bản hội tập này dùng hai mươi
bốn làm cương lănh, bốn mươi tám làm
đề mục, cho nên có hai mươi bốn
chương, bốn mươi tám nguyện, dung hội cả
hai bên; đấy là chỗ khéo léo của bản hội
tập này.
Tiếp theo, sách viết: “Thả Hán Ngô lưỡng dịch
tuy đồng vi nhập tứ nguyện, đản nội
dung diệc thậm bất đồng” (Tuy hai bản
Hán dịch và Ngô dịch cùng chép hai mươi bốn
nguyện, nhưng nội dung các nguyện cũng rất khác
nhau). Từ những chỗ này, chúng ta có thể nghĩ
bộ kinh này chắc chắn được Thích Ca Mâu Ni Phật
tuyên giảng nhiều lần nên mới có nhiều bản
như vậy. Nếu Ngài chỉ giảng một lần,
chỉ có một bản gốc, bất luận là ai phiên
dịch, những lời nguyện này không thể nào chép sai
được. Từ những chỗ này, chúng ta có thể
hiểu cách suy nghĩ của cổ đại đức,
[họ nghĩ] bộ kinh này đă được
đức Thế Tôn tuyên giảng nhiều lần, huống
chi c̣n có bảy bản dịch bị thất truyền,
chúng ta chẳng đọc được, trong đó c̣n có
chỗ sai khác hay không chúng ta cũng không biết. Ở Trung
Quốc, tổng cộng có đến mười hai
bản dịch kinh Vô Lượng Thọ, từ triều
Hán đến triều Nam Tống kéo dài tám trăm năm, phiên
dịch mười hai lần. Chúng ta tin tưởng: Dựa
theo những bản dịch này để nói, tin chắc đức
Phật chẳng phải chỉ giảng kinh này một
lần, mà là nhiều lần. Chuyện này rất ít có! Năm
xưa, lúc đức Thế Tôn giảng kinh thường
chỉ giảng một lần, chẳng hề lập
lại một bộ kinh nào. Chỉ riêng bộ kinh này
được giảng nhiều lần, cổ đại
đức đoán ít nhất đức Phật cũng
giảng ba lần. Quư vị thấy: Hai mươi bốn
nguyện, bốn mươi tám nguyện, ba mươi sáu
nguyện, ít nhất cũng là ba lần. Nếu không,
chẳng thể nào có sự sai khác lớn như vậy! Xem
kỹ hơn, quư vị thấy hai bản dịch ghi hai
mươi bốn nguyện, hai mươi bốn
nguyện ấy cũng khác nhau; hai bản dịch ghi
bốn mươi tám nguyện, bốn mươi tám nguyện
trong hai bản dịch ấy cũng khác nhau. Điều
này chứng tỏ đức Phật đă giảng bộ
kinh này nhiều lần, giảng nhiều lần th́
nhất định phải là vô cùng quan trọng, v́ bộ
kinh này mới là công đức viên măn của chư
Phật Như Lai.
Ở đây, [cụ Hoàng] nêu ra
một thí dụ, thí dụ này rất quan trọng. Nguyện thứ hai trong bản Ngô dịch
là: “Sử mỗ tác Phật thời, linh ngă quốc trung,
vô hữu phụ nhân. Nữ nhân dục lai sanh ngă quốc
trung giả, tức tác nam tử” (Khi tôi thành Phật, trong
nước tôi không có phụ nữ. Nữ nhân muốn sanh
về nước tôi, liền biến thành nam tử). Quư vị thấy Ngài có
nguyện này, tức là nguyện “cơi nước chẳng có
người nữ”. Tiếp theo đó, bản dịch ấy
ghi: “Chư vô ương
số thiên nhân dân, quyên phi nhuyễn động chi loại,
lai sanh ngă quốc giả, giai ư thất bảo thủy
tŕ, liên hoa trung hóa sanh trưởng đại, giai tác
Bồ Tát, A La Hán, đô vô ương số. Đắc
thị nguyện, năi tác Phật. Bất đắc thị
nguyện, chung bất tác Phật” (Vô ương số chư thiên, nhân dân, các
loài bay lượn, ngọ nguậy, ḅ trườn, sanh
về nước tôi đều hóa sanh, lớn khôn trong hoa
sen nơi ao nước bảy báu, đều là Bồ Tát.
A La Hán [và Bồ Tát] đều là vô ương số.
Thỏa nguyện ấy mới làm Phật. Chẳng
thỏa nguyện ấy, trọn chẳng làm Phật). Quư
vị thấy trong đó có hai nguyện “hóa sanh trong hoa sen”
và “cơi nước không có người nữ”, trong các
bản dịch khác không có hai nguyện này. Bản Hán
dịch chẳng có, các bản dịch khác cũng chẳng
có. “Do thử khả kiến, chư dịch sai
dị chi thậm” (Do đây, ta
có thể sự sai biệt giữa các bản dịch
rất lớn), đây là một vấn đề đáng
lẽ không nên có; do đó, có thể [khẳng định]
chắc chắn [năm bản dịch] chẳng phải dịch
từ cùng một bản kinh gốc, và truyền
đến Trung Quốc chẳng phải chỉ có một
bản kinh gốc. Điều này nói rơ chẳng phải
đức Phật Thích Ca Mâu Ni chỉ giảng kinh này
một lần mà thôi. “Thả
Hán Ngô lưỡng dịch, tuy đồng viết nhập
tứ nguyện, đản thực tế nội dung, tắc bất
chỉ nhập tứ” (Hơn nữa, hai
bản Hán dịch và Ngô dịch tuy cùng nói hai mươi
bốn nguyện, nhưng thật ra nội dung của chúng
chẳng phải chỉ hạn cuộc trong hai mươi
bốn nguyện). Quư vị đọc bản Ngô dịch, chúng
ta vừa mới xem nguyện thứ hai trong phần thí dụ,
trong đó có tới bốn nguyện. Trong một nguyện,
thật ra bao gồm [các nguyện] “cơi nước không có
người nữ”, đây là một nguyện, “hóa sanh trong
hoa sen” [là nguyện thứ hai. Nguyện thứ ba là] súc sanh
cũng có thể văng sanh, loài tiểu động vật
như loài trùng ngọ nguậy hoặc bay lượn là súc
sanh đạo. Súc sanh cũng có thể văng sanh, sanh
đến thế giới Cực Lạc đều làm
Bồ Tát, làm A La Hán.
Nguyện thứ tư, “Bồ Tát, A La Hán vô lượng
đẳng, tinh yếu thắng nguyện” (Bồ Tát, A
La Hán v.v... là nguyện thù thắng tinh yếu), nguyện [thứ hai trong
bản Ngô dịch] bao gồm bốn nguyện. “Chuẩn thị khả tri, sở vị
nhập tứ nguyện, thật bất chỉ nhập
tứ. Cứ chư Hậu Xuất A Di Đà Kệ
Kinh thệ nhị thập tứ chương
chi kinh văn. Khả tri Di Đà thệ nguyện thật
vi nhập tứ chương, phi cẩn nhập tứ nguyện
dă” (Do đó có thể biết, tuy nói là hai
mươi bốn nguyện, nhưng thật sự
chẳng phải chỉ có hai mươi bốn nguyện.
Cứ theo ư câu kinh “thệ nhị thập tứ
chương” (thệ nguyện hai mươi bốn chương)
trong kinh Hậu Xuất A Di Đà Phật Kệ, có thể
biết: Thệ nguyện của A Di Đà Phật thật
sự có đến hai mươi bốn chương,
chứ chẳng phải chỉ có hai mươi bốn
nguyện). Cách nói này rất hợp lư luận, hợp lư,
chúng ta có thể tin tưởng. C̣n như hai
bản Đường dịch và Ngụy dịch tuy nói là
bốn mươi tám, “thực
tế tắc bất túc tứ thập bát” (nhưng
thật ra chẳng đủ số bốn mươi tám). Quư vị hăy quan sát kỹ, “lệ như Ngụy dịch
đệ nhập cửu nguyện” (ví dụ như nguyện
thứ hai mươi chín trong bản Ngụy dịch), nguyện
thứ hai mươi chín nói như thế này: “Thiết ngă đắc Phật, quốc trung Bồ
Đề nhược thọ, độc kinh pháp, phúng,
tụng, tŕ, thuyết, nhi bất đắc biện tài trí
huệ giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu như tôi thành Phật, các Bồ Tát
trong nước nếu đă nhận, đọc kinh pháp,
phúng, tụng, tŕ, nói, mà chẳng đạt được
biện tài trí huệ, tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Nguyện thứ ba mươi được
kinh văn chép [như sau]: “Thiết ngă đắc
Phật, quốc trung Bồ Tát trí huệ biện tài,
nhược khả hạn lượng giả, bất
thủ Chánh Giác. Thật tắc thử lưỡng nguyện
chỉ hữu quảng lược chi dị, đệ tam
thập nguyện chỉ thị đệ nhập cửu
nguyện chi bổ sung dữ dẫn thân nhi dĩ” (“Nếu như tôi thành Phật, trí huệ
biện tài của Bồ Tát trong nước tôi c̣n có
hạn lượng th́ chẳng lấy ngôi Chánh Giác”. Rơ ràng, hai nguyện này chỉ sai khác ở
chỗ nói chi tiết hay đại lược. Nguyện
thứ ba mươi chỉ bổ sung và mở rộng nguyện
thứ hai mươi chín mà thôi). Nói cách khác, hai nguyện này
có thể hợp lại thành một nguyện.
“Đường
dịch trung đệ nhập
cửu dữ tam thập nguyện, diệc dữ
thử đồng.
Cánh hữu tiến giả, Ngụy Đường lưỡng
dịch quân khuyết quốc vô nữ nhân cập liên
hoa hóa sanh chi nguyện. Khả kiến Ngụy
Đường lưỡng dịch chi tứ thập
bát nguyện tịnh vị viên cụ chư nguyện” (Nguyện thứ hai mươi chín và ba
mươi trong bản Đường dịch cũng giống
vậy. Nói cách khác, hai bản Đường dịch và Ngụy
dịch cùng thiếu các nguyện “liên hoa hóa sanh” và “nước
không có nữ nhân”. Rơ ràng, bốn mươi tám nguyện nói
trong bản Ngụy dịch và Đường dịch cũng
chưa bao gồm đầy đủ tất cả các
nguyện vậy). Đọc kỹ các lời nguyện
này, trong ấy có sự sai khác rất lớn. C̣n hai bản
Hán dịch và Ngô dịch, “tắc khuyết
thập niệm tất sanh chi căn bản đại nguyện” (bị khuyết đại nguyện
căn bản là nguyện “mười niệm ắt văng
sanh”). Nguyện “mười
nguyện ắt văng sanh” quan trọng lắm, giúp người
tu Tịnh Độ chúng ta thật sự xây dựng niềm
tin, khẳng định trong đời này chúng ta có phần
nơi Tịnh Độ, chẳng c̣n hoài nghi nữa, trong
đời này chúng ta có thể thành tựu hay không, đây là
then chốt! Do đó, các vị đại đức
xưa và nay đều coi trọng nguyện này, gọi nó là
“đại nguyện căn bản”. Có thể thấy
năm bản dịch các đời Hán, Ngô, Ngụy,
Đường, Tống “quân
phi Vô Lượng Thọ Kinh chi thiện bổn” (đều
chưa phải là văn bản hoàn thiện của kinh Vô
Lượng Thọ). V́ thế, thuở xưa muốn đọc kinh Vô Lượng
Thọ, nếu quư vị không đọc hết năm bản
dịch của kinh này, sẽ bị thiếu sót. Đọc
hết cả năm bản dịch cũng khá khó khăn,
chẳng dễ ǵ kiếm được đủ cả
năm bản dịch, ngay như khi cư sĩ
Vương Long Thư hội tập kinh Vô Lượng Thọ
cũng chỉ đọc được bốn bản dịch,
Ngài chẳng kiếm được bản Đường
dịch. Người có thân phận như vậy, là một
vị trưởng giả giàu to [mà cũng t́m chẳng
đủ năm bản dịch]. Lúc hội tập, Ngài
cũng biết có năm bản dịch, nhưng chẳng
t́m được bản Đường dịch, đó là
một sự đáng tiếc, v́ trong bản Đường
dịch có những đoạn kinh văn mà bốn bản
kia chẳng có.
“Thị dĩ hội tập chư dịch, quảng
hiệt chúng trường, lánh thành hội bổn, thật bất
dung hoăn dă” (Do vậy, việc hội
tập các bản dịch, chọn lấy những ưu
điểm của các bản để soạn riêng thành một
hội bản quả thật là điều không thể chần
chừ được nữa).
Do đó cư sĩ Vương Long Thư là người
đời Tống, là người đầu tiên hội tập
kinh này. Do ông ta chẳng được đọc bản
Đường dịch, tức là Vô Lượng Thọ Hội
trong kinh Bảo Tích. Sau đó, trong đời Thanh trước
kia, cư sĩ Ngụy Mặc Thâm hội tập lần thứ
hai, ông ta xem trọn năm bản dịch, nên bản hội
tập của ông vượt trội bản của
Vương Long Thư. Lời văn trong bản này hay
hơn bản của Vương Long Thư, nhưng lưu
thông chẳng rộng, người biết đến bản
này rất ít. Bản hội tập của Vương Long
Thư đă nổi danh, lưu thông rộng răi, mọi
người đều thấy được. Bản hội
tập của Ngụy Mặc Thâm cũng có vấn đề,
Ẩn Quang đại sư đă phê b́nh bản ấy. Vấn
đề lớn nhất đầu tiên là “chỗ bỏ đi,
chỗ thêm vào chẳng đúng”, đây là một vấn
đề lớn. Chỗ đáng chọn lấy th́ ông ta chẳng
chọn lấy, chỗ chẳng đáng lấy, ông lại
chọn lấy không ít. C̣n có những chỗ, người
xưa rất kỵ điều ấy, tức là trong
đó có một số chữ bị sửa đổi. Lúc
dịch kinh, chính ḿnh có thể theo ư ḿnh [chọn chữ
để dùng], nhưng khi hội tập, chẳng thể
[sửa chữ]! Tuyệt đối chẳng thể sửa
đổi một chữ nào của người dịch. Có
như vậy th́ quư vị mới được đại
chúng tin tưởng, [sửa chữ] là điều tuyệt
đối không được phép khi hội tập. Do
đó mới có bản hội tập lần thứ ba của
cư sĩ Hạ Liên Cư, lần này những lỗi lầm
mắc phải trong hai lần hội tập trước
đều chẳng có. Vả lại, cụ dùng một thời
gian dài [hơn để hội tập], cụ Hạ bỏ
ra mười năm để hội tập bộ kinh này.
Ba năm hoàn thành bản thảo đầu tiên, lại trải
qua mười lần sửa đổi, tổng cộng mất
hết mười năm mới hoàn thành bản hoàn thiện
này; do đó, bản này vô cùng quư báu!
Chúng ta xem lời giới thiệu ở đây: “Ư thị, Hạ sư hội
tập chư dịch chi đại nguyện” (Cho nên, thầy Hạ với
đại nguyện hội tập các bản dịch), lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư là thầy của cụ Hoàng Niệm Tổ, nên cụ
Hoàng gọi cụ Hạ là “thầy Hạ”. “Kư trọng cổ dịch đa kiến chi nhập tứ, hựu thải thế
gian sở lưu thông chi tứ thập bát,
năi dĩ nhập tứ vi chương, tứ thập
bát vi mục. Kư phù thệ nhập tứ chương, hựu
hợp tứ thập bát nguyện. Kinh trung bị tập
chư dịch chi trường, thập niệm tất
sanh, quốc vô nữ nhân, liên hoa hóa sinh chư nguyện,
giai kiến ư hội bổn” (Vừa
chú trọng hai mươi bốn nguyện như trong
đa phần các bản cổ dịch đă dùng, lại
thuận theo quan niệm phổ biến là có bốn
mươi tám nguyện, bèn chia nguyện văn thành hai
mươi bốn chương, gồm bốn mươi
tám đề mục. Kinh văn có đủ ưu điểm
của các bản dịch, các nguyện “mười niệm
ắt sanh, cơi nước chẳng có người nữ,
hóa sanh vào hoa sen” đều có đủ trong bản hội
tập này). Kinh Vô Lượng Thọ đến đây đă
viên măn, nghĩa là đến thế hệ chúng ta [bản
kinh viên măn này mới được lưu thông rộng răi].
Thế hệ trước, [tuy kinh đă được hội
tập] viên măn, nhưng chưa được lưu thông rộng
răi, thời loạn lạc chiến tranh chẳng có cách nào
lưu thông! Lúc đó, chỉ in được một lần,
số lượng đại khái cũng không nhiều. Bản
kinh văn này là do pháp sư Luật Hàng từ Sơn
Đông có được, đem đến Đài Loan tặng
cho thầy Lư. Thầy Lư đọc xong, vô cùng hoan hỷ,
h́nh như lúc đó đă in ba ngàn cuốn ở Đài Trung để
các đồng học trong liên xă học tập. Lăo nhân gia
đă đích thân giảng bản hội tập này một
lần, h́nh như đă giảng một lần ở chùa
Pháp Hoa tại Đài Trung, có soạn mi chú. Lúc bấy giờ,
h́nh như thầy Lư sáu mươi mấy tuổi, lúc tôi gặp
thầy th́ thầy đă sáu mươi chín tuổi. [Thầy
giảng kinh này] trước đó mấy năm, nên tôi chẳng
được nghe. Sau này, lúc thầy giảng bản của
Khang Tăng Khải th́ tôi được nghe từ đầu
đến cuối. Chẳng dễ dàng, lưu thông đúng
là chẳng dễ! Chướng ngại trùng trùng. Măi cho tới
ngày nay, nói chung, đă vượt qua được cửa
ải này. Hiện nay người phản đối [bản
hội tập của cụ Hạ] chẳng nhiều, nhà
nước cũng đă thừa nhận, lúc Cục Tôn Giáo
in Tịnh Độ Ngũ Kinh đă dùng bản hội tập
kinh Vô Lượng Thọ của lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư.
Chúng
ta phải biết những chuyện đă qua th́ mới biết
bộ kinh này đúng là hiếm hoi, khó gặp; đời
này chúng ta có thể gặp gỡ, rất đáng vui mừng,
có bao nhiêu người tu Tịnh Độ chẳng có
cơ duyên gặp kinh này. Sau khi lăo cư sĩ Hạ Liên
Cư hội tập xong, đă đích thân giảng xong, cụ
Hoàng đích thân nghe giảng, lại c̣n có ghi bút kư. Liên Công (cụ
Hạ Liên Cư) căn dặn cụ Hoàng soạn một
cuốn Chú Giải cho kinh này. Cụ Hoàng vâng lời thầy
soạn cuốn Chú Giải này, soạn tác phẩm Chú Giải
này cũng rất gian nan, cực khổ, nhưng được
Tam Bảo gia tŕ, lúc ấy, thân thể đau đớn, khổ
năo v́ lắm bệnh ngần ấy nhưng vẫn hoàn thành
cuốn Chú Giải này. Sau khi Chú Giải hoàn thành chẳng
bao lâu, chúng tôi mới được gặp. Tôi gặp cụ
Hoàng ở Mỹ, lúc gặp nhau, cụ Hoàng đem một bản
Chú Giải, bản ấy được in ronéo trên giấy
sáp (stencil). Chúng ta biết bản này được hoàn
thành đúng là chẳng dễ dàng, v́ stencil chỉ in
được tối đa một trăm bản, sau
đó không thể dùng lại được nữa. Do
đó, chúng tôi biết số lượng in rất ít. Tôi đọc
xong vô cùng hoan hỷ, gọi điện thoại cho cụ
Hoàng và hỏi cụ có giữ bản quyền hay không, v́ có
bản quyền th́ chúng tôi không dám in. Nếu không có bản
quyền, tôi sẽ in giúp cụ, lưu thông ở hải
ngoại. Cụ nói cụ rất hoan hỷ, không giữ bản
quyền, hoan nghênh in ra. V́ vậy, lần đầu tiên
chúng tôi in một vạn cuốn đóng b́a cứng, cụ vô
cùng hoan hỷ. Hiện nay bản này lưu thông vô cùng rộng
răi, chỗ nào cũng có người in.
Chúng
ta xem tiếp phần sau: “Phục
diệu nhiếp các nguyện tinh yếu, dĩ thiểu văn
nhi hiển đa nghĩa” (c̣n khéo chọn lấy những
điểm tinh yếu của các nguyện, lời ít
nhưng nghĩa nhiều), đây là do Liên Công (cụ Hạ
Liên Cư) khéo léo dùng chữ trong lúc hội tập. “Lệ như Ngụy dịch đệ
tạp bát nguyện: “Thiết ngă đắc Phật, quốc
trung thiên nhân dục đắc y phục, tùy niệm tức
chí. Như Phật sở tán ứng pháp diệu phục, tự
nhiên tại thân. Hữu cầu tài, phùng, đảo, nhiễm,
tẩy, trạc giả, bất thủ Chánh Giác” (Chẳng hạn như nguyện thứ
ba mươi tám trong bản Ngụy dịch là: “Ví như tôi thành Phật,
trời, người trong nước muốn có y phục,
nghĩ đến liền có, tự nhiên trên thân khoác áo tốt
đẹp đúng theo pháp như Phật đă khen ngợi.
Nếu c̣n phải cắt, may, đập, nhuộm, giặt
giũ, chẳng lấy ngôi Chánh Giác”). Nguyên văn bản Ngụy
dịch là như vậy. Nguyện thứ hai mươi bốn
ghi: “Thiết
ngă đắc Phật, quốc trung Bồ Tát tại chư
Phật tiền, hiện kỳ đức bổn, chư sở
cầu dục cúng dường chi cụ, nhược bất
như ư giả, bất thủ Chánh Giác” (Nếu tôi thành Phật, Bồ Tát trong nước tôi
khi ở trước chư Phật hiển hiện cội
đức của ḿnh, nếu những vật họ muốn
có để cúng dường chẳng được
như ư th́ tôi chẳng lấy ngôi Chánh Giác). Đây đều
là những lời lẽ trong bản Ngụy dịch, quư vị
xem nguyện thứ ba mươi tám và nguyện thứ hai
mươi bốn. “Ngụy dịch thử lưỡng nguyện
hiển y phục dữ cúng cụ chi như
ư. Đản khuyết phạn
thực như ư” (Cả hai nguyện trên của
bản Ngụy dịch nói đến y phục và vật
cúng dường như ư, nhưng chẳng nói đến
cơm ăn như ư). C̣n
trong bản Hán dịch có nói đến, “Hán dịch đệ nhị thập tam nguyện”
(nguyện
thứ hai
mươi ba của bản Hán dịch), tức nguyện thứ hai mươi bốn
trong bản Ngô dịch, cũng có đoạn văn như
sau: “Ngă tác Phật thời, ngă quốc
chư Bồ Tát dục phạn thời, tắc thất bảo
bát trung, sanh tự nhiên bách vị phạn thực tại tiền.
Thực dĩ, bát giai tự nhiên khứ. Bất nhĩ giả,
ngă bất tác Phật” (Lúc tôi thành Phật, các Bồ
Tát trong nước tôi lúc muốn ăn th́ tự nhiên sanh ra
cơm trăm vị trong bát bằng bảy báu hiện ra
trước mặt. Ăn xong, bát tự nhiên biến mất.
Nếu chẳng được như vậy, tôi chẳng
làm Phật). Do đây, ta càng thấy rơ bản Ngụy dịch
và bản Đường dịch thật sự chẳng
đủ bốn mươi tám nguyện. “Kim thử hội bản” (nay bản hội tập
này) gom ba nguyện trên thành một
nguyện như sau: “Ngă tác Phật
thời, sanh ngă quốc giả, sở nhu ẩm thực, y
phục, chủng chủng cúng cụ, tùy ư tức chí, vô bất
măn nguyện. Khả kiến hội bổn, văn ước nghĩa phong, chư
dịch sở cụ chi Di Đà thắng
nguyện, bị hiển vô di. Thị dĩ cận
thế chư hiền, công nhận thử vi thiện bổn,
lương hữu dĩ dă” (“Lúc tôi thành Phật, người
sanh trong nước tôi: thức ăn, y phục, các thứ
vật cúng cần dùng đều tùy ư hiện đến,
không chi chẳng được măn nguyện”. Có thể thấy,
bản hội tập văn ngắn gọn, ư nghĩa súc
tích, các nguyện thù thắng của Phật Di Đà ghi trong các
bản dịch đă được nêu đủ không c̣n
sót. V́ vậy, bản hội tập này được các bậc
hiền đức cận đại công nhận là bản
hoàn thiện nhất th́ cũng là điều rất hợp
lư vậy). Mọi người
đều công nhận bản hội tập này là bản
hoàn thiện nhất của kinh Vô Lượng Thọ.
Mười mấy năm trước, lần đầu
tiên tôi về nước (về Đại Lục), bắt
đầu từ Hương Cảng, có hai mươi mấy
vị đồng tu cùng đi với tôi. Đến Bắc
Kinh, người đầu tiên chúng tôi tới thăm là cụ
Triệu Phác Sơ, lúc đó, cũng nói đến vấn
đề bản hội tập này, cụ hết sức
tán thán, vô cùng hoan hỷ. Kinh Vô Lượng Thọ kể
như đă có một bản hoàn thiện, đó là chúng sanh
có phước, mà cũng là quốc gia có phước. Lúc
tôi dạy học ở Tân Gia Ba đă soạn khoa phán tường
tận cho kinh này, khoa phán cũng được in ra, tôi tặng
cuốn khoa phán cho cụ. Cụ Hoàng đă tặng cho cụ
Phác Sơ cuốn Chú Giải [kinh Vô Lượng Thọ],
khi tôi tặng cho cụ Phác Sơ cuốn khoa phán này, cụ
vô cùng hoan hỷ, nói việc này đă viên măn rồi! Quư vị
thấy [chúng ta] có khoa phán, có Chú Giải, lại có bản hội
tập hay ngần ấy. [Ai cũng] vô cùng hoan hỷ, vô
cùng tán thán! Nhưng điều quan trọng là chúng ta phải
thật sự đọc tụng, thật sự học tập,
mới chẳng cô phụ đức Thế Tôn đă nhiều
phen tuyên giảng [kinh Vô Lượng Thọ], chẳng cô phụ
tổ sư đại đức đă dầy công khổ
nhọc ba lần hội tập, lại c̣n một lần
tiết giảo của cư sĩ Bành Tế Thanh.
Cụ Hoàng chịu đựng thân thể bệnh khổ
để hoàn thành bản Chú Giải này, tôi đến thăm
cụ tại nhà, cụ dùng một trăm chín mươi
ba loại sách tham khảo, tôi đều nh́n thấy. Lúc
đó, tôi vô cùng kinh ngạc, tôi hỏi: “Lăo cư sĩ làm
sao có được những sách ấy?” Cụ nói: “Có rất
nhiều nơi gởi tới, chính tôi cũng chẳng biết”.
Cảm ứng chẳng thể nghĩ bàn, cụ cần những
sách tham khảo ấy, Phật, Bồ Tát đều mang
đến cho cụ. Lúc đó tôi nói với cụ: “Tôi sẽ
tặng cho cụ một bộ Đại Tạng Kinh
được không?” Cụ nói không được đâu,
nhà cụ không có chỗ nào để chứa. Nhà cụ rất
nhỏ hẹp, đại khái tổng diện tích chỉ lớn
bằng pḥng thâu h́nh của chúng tôi. Căn pḥng cụ ở
rất nhỏ, chỉ có một cái giường, một
cái bàn, kế bên chất toàn là sách, chất thành cả một
đống sách. Trong hoàn cảnh gian khổ, khó khăn
như vậy, cụ hoàn thành cuốn Chú Giải này, nếu
chẳng nhờ Tam Bảo gia tŕ sẽ chẳng thể làm
nổi. Ngày nay, chúng ta in những cuốn sách rất đẹp
đẽ như vậy để cúng dường đại
chúng, quư vị phải biết chúng ta có phước lớn
lắm, những người thuộc đời trước
chúng ta có nằm mộng cũng chẳng nghĩ ra! Ngày nay
chúng ta đều có đủ, tất cả đều bày
trước mặt chúng ta, nếu chúng ta không sốt sắng
nỗ lực học tập, không chỉ có lỗi với
chính ḿnh, đừng nói là có lỗi với người
khác, chỉ nói là có lỗi với chính ḿnh. Duyên phận này
đúng như khai kinh kệ đă nói “trăm ngàn muôn kiếp khó gặp gỡ”, Bành Tế
Thanh cư sĩ nói: “Đây là một
ngày hy hữu khó gặp từ vô lượng kiếp đến
nay”, chúng ta đă được gặp. Đă được
gặp th́ phải hạ quyết tâm, đời này nhất
định văng sanh Tịnh Độ, đó là thật sự
báo ân Phật, báo ân tổ sư, báo ân đại đức
thí chủ, báo ân quốc gia, trên đền bốn ân nặng,
dưới cứu khổ tam đồ, chúng ta mới thật
sự làm được! Nội dung kinh điển này thù
thắng, [ngay cả] trong kinh Hoa Nghiêm cũng chẳng t́m
được; do đó, quả thật là hy hữu, khó gặp.
Nhưng vấn đề là làm thế nào th́ mới thật
sự có thể thành tựu trong đời này ? Tiêu chuẩn
nói trong Khởi Tín Luận quá cao, tiêu chuẩn do Mă Minh Bồ
Tát đă nói là tiêu chuẩn tuyệt đối, chúng ta chẳng
dễ ǵ làm được. Ngài dạy chúng ta ĺa tướng
văn tự. Chúng ta đọc tụng phải ĺa tướng
văn tự, nghe giảng kinh phải ĺa tướng ngôn
thuyết, ĺa tướng danh tự, ĺa tướng tâm
duyên. Trên thực tế, Tổ Ấn Quang dạy chúng ta giống
hệt như Mă Minh Bồ Tát đă dạy, nhưng ngữ
khí ḥa hoăn hơn rất nhiều. Tổ Ấn Quang dạy
chúng ta: “Một phần thành
kính được một phần lợi ích, mười
phần thành kính được mười phần lợi
ích”. Như thế nào là tuyệt đối thành kính? Vẫn
là như lời Mă Minh Bồ Tát đă dạy, đó là tiêu
chuẩn của sự thành kính. Nay chúng ta hạ thấp
tiêu chuẩn này xuống, nhất định phải dùng
tâm cung kính, tâm hời hợt hấp tấp sẽ không học
được ǵ! Xen tạp vọng niệm sẽ không học
không được ǵ! Thật vậy, chẳng giả đâu
nhé! Do đó, chúng ta hăy nhớ kỹ “nhất hướng chuyên niệm”, hăy ghi nhớ
câu này, chỉ tuân theo một mục tiêu, một
phương hướng, chuyên niệm A Di Đà Phật,
chuyên học kinh Vô Lượng Thọ. Một bộ kinh
này là đủ rồi, cả đời đừng bày
thêm chuyện ǵ nữa, bày vẽ nhiều quá, người
ta thường nói “tham nhiều,
nhai không nát”. Chúng ta chỉ thâm nhập một môn, huân tu
lâu dài, chắc chắn sẽ có thành tựu. Đời này
tôi chẳng làm chuyện ǵ khác, chỉ một bộ kinh Vô
Lượng Thọ, chỉ một câu A Di Đà Phật, một
ḷng một dạ cầu sanh Tịnh Độ, đến
thế giới Cực Lạc thân cận A Di Đà Phật,
như vậy th́ mới được.
Hiện nay, học cái ǵ cũng khó, khó ở chỗ
nào? Xă hội hiện nay chẳng tôn trọng người
xưa, coi thường người xưa, coi thường
tôn giáo, cho rằng tôn giáo đều là mê tín! Nếu quư vị
có quan niệm ấy th́ cái ǵ cũng chẳng đạt
được. Do đó, có thể biết cội rễ của
pháp thế gian và xuất thế gian ở đâu? Cội rễ
thật sự là hiếu thảo cha mẹ, tôn trọng thầy,
tức là hai câu đầu tiên trong Tịnh Nghiệp Tam
Phước “hiếu dưỡng
cha mẹ, phụng sự sư trưởng”. Nếu
quư vị không dồn công sức nơi đấy, quư vị
cầu học sẽ cầu chẳng được, chắc
chắn sẽ không đạt được vật báu của
thánh hiền. Quư có thể học một vài kỹ thuật
thế gian, c̣n những ǵ thánh hiền để lại quư
vị sẽ không thể hưởng! Vật báu của
thánh hiền được xây dựng trên cơ sở hiếu
đạo và sư đạo. Chẳng thể không hiếu
dưỡng cha mẹ, chẳng thể không tôn kính sư
trưởng. Hiếu thảo cha mẹ, tôn kính sư
trưởng tức là tôn kính Tánh Đức của chính quư
vị, [hiếu thảo và tôn kính] là đại biểu của
Tánh Đức. Cổ nhân Trung Quốc đời xưa coi
trọng điều này nhất, chẳng có ǵ quan trọng
hơn, chúng ta chớ nên không biết điều này. Do bài
giảng kế tiếp sẽ nói về nguyên văn lời
báo cáo của tỳ-kheo Pháp Tạng, nếu tâm trạng và
thái độ học tập của chúng ta không đủ,
th́ nghe xong cũng như gió thoảng qua tai, chẳng thâu thập
được ǵ. Do đó, phải có đầy đủ
điều kiện cơ bản của một người
học tṛ, phải hiếu thảo cha mẹ, tôn kính thầy,
thật sự biết “trọng đạo”, th́ học bộ
kinh này cũng như có được vật quư báu nhất.
Vật quan trọng nhất của ḿnh trên thế gian này là
ǵ? Chính là bộ kinh này! Coi kinh này như mạng căn của
ḿnh, một ngày cũng không thể buông bỏ th́ chúng ta sẽ
thành công. A! Hôm nay đă hết thời gian rồi, chúng ta học
tới đây thôi.
Tập 194
Pháp
Tạng bạch ngôn: - Duy nguyện Thế Tôn, đại từ
thính sát.
法 藏 白 言:唯 願 世 尊,大
慈 聽 察。
(Pháp Tạng
bạch rằng: - Kính xin đức Thế Tôn đại từ
nghe, xét)
Trong Chú Giải, cụ Hoàng ghi: “Thính giả, nhĩ văn dă. Sát giả, tâm trung thẩm
tư dă” (Thính là tai nghe, sát là trong tâm suy xét), như vậy
cũng dễ hiểu. “Hội Sớ
viết: Như Lai thính kỳ thuyết minh, chiếu sát đơn thành, cố vân thính sát. Cố kinh
nghĩa vi: Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu Thế
Tôn, thùy từ ư ngă, thính ngă sở thuyết, giám
ngă thành tâm. Dĩ hạ, Pháp Tạng trần thuyết sở
phát đại nguyện”
(Sách Hội Sớ giảng:
“Như Lai nghe ông ta tŕnh bày, soi xét tấm ḷng son, nên bảo
là thính sát (nghe, xét)”. Như vậy, câu kinh trên đây có
nghĩa là: Pháp Tạng Bồ Tát thỉnh cầu đức
Thế Tôn rủ ḷng Từ thương xót ḿnh, nghe lời
ḿnh thưa, soi xét tấm ḷng thành của ḿnh. Tiếp theo
đó, Pháp Tạng tŕnh bày những đại nguyện chính
ḿnh đă phát). Ba câu này là lời
đức Thế Gian Tự Tại Vương Phật yêu
cầu Pháp Tạng hăy báo cáo tường tận với
đại chúng về thế giới Cực Lạc do Ngài vừa
mới kiến lập. Ba câu này nhằm trần thuật lời
ngài Pháp Tạng vô cùng cung kính thỉnh Phật và đại
chúng nghe Ngài báo cáo. Chúng ta xem đoạn kinh tiếp theo:
Ngă nhược chứng đắc
Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác dĩ, sở
cư Phật sát, cụ túc vô lượng bất khả
tư nghị công đức trang nghiêm.
我 若 證 得 無 上 菩 提,成
正 覺 已,所
居 佛 剎,具
足 無 量 不 可 思 議 功 德 莊 嚴。
(Nếu tôi chứng được Vô Thượng Bồ Đề, thành Chánh Giác rồi th́ cơi nước tôi ở sẽ đầy đủ vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn).
Đoạn
này là nói chung, cũng là tổng cương lănh của bài
báo cáo của tỳ-kheo Pháp Tạng. Kế tiếp là
lời tường thuật chi tiết, nêu ra cụ
thể những thứ công đức trang nghiêm chẳng
thể nghĩ bàn nào? Phần sau gồm có hai mươi
bốn chương, tức là bốn mươi tám
nguyện.
Vô hữu
địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, quyên phi
nhuyễn động chi loại.
無 有 地 獄、餓 鬼、禽 獸、蜎 飛 蠕 動 之 類。
(Không có địa ngục, ngạ quỷ, cầm thú, các loài ngọ nguậy, bay lượn, ḅ trườn).
Đây là nói thế giới [Cực Lạc] chẳng
có tam ác đạo, tuy có lục đạo, nhưng không có
ba đường ấy.
Sở hữu nhất thiết
chúng sanh, dĩ cập Diễm Ma La giới, tam ác đạo
trung, lai sanh ngă sát, thọ ngă pháp hóa, tất thành A Nậu
Đa La Tam Miểu Tam Bồ Đề, bất phục cánh
đọa ác thú. Đắc thị nguyện, năi tác Phật.
Bất đắc thị nguyện, bất thủ vô
thượng Chánh Giác.
所 有 一 切 眾 生,以 及 焰 摩 羅 界,三
惡 道 中,來
生 我 剎,受
我 法 化,悉
成 阿 耨 多 羅 三 藐 三 菩 提,不 復 更 墮 惡 趣。得
是 願,乃 作 佛,不 得 是 願,不
取 無 上 正 覺。
(Tất cả hết thảy chúng
sanh cho đến những kẻ từ trong cơi Diễm Ma
La, trong ba đường ác sanh sang cơi tôi, nhận pháp hóa của
tôi, ắt thành Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh Giác, chẳng
đọa vào đường ác nữa. Nguyện
được như thế mới làm Phật. Chẳng
thỏa nguyện ấy, chẳng giữ lấy vô thượng
Chánh Giác).
Đoạn này là nguyện thứ hai “chẳng đọa
ác thú”. Nguyện thứ nhất là “nước không có ác
đạo”, nguyện thứ hai là “chẳng đọa ác
thú”. Người từ đâu văng sanh sẽ không đọa?
[Chúng sanh từ các đường] ngạ quỷ, địa
ngục sanh đến Tây Phương Cực Lạc thế
giới sẽ vĩnh viễn không đọa ba đường
ác nữa. Chúng ta xem kinh văn, hai nguyện này được
đặt ở đầu, chúng ta có thể tưởng
tượng được, trong năm kiếp, tỳ-kheo
Pháp Tạng đă tham quan, khảo sát, tu học, đi qua trọn
khắp mười phương ba đời hết thảy
cơi nước chư Phật, nhất định là đă
thấy rất nhiều thế giới, cơi nước
chư Phật đều có lục đạo luân hồi,
đều có tam ác đạo. Lục đạo luân hồi
chẳng giả; nếu là giả th́ trong hoằng nguyện
của Pháp Tạng Bồ Tát chắc chắn sẽ không có
nguyện này. Vả lại, Ngài c̣n để nguyện này
trước nhất, nhằm khiến cho chúng ta cảnh
giác cao độ. Tôi tin tưởng ai có một chút thông
minh, có một chút thiện căn, vừa đọc đến
nguyện này, sẽ lập tức biết cơi Cực Lạc
vô cùng thù thắng. Thù thắng ở chỗ nào? Chính là thù thắng
ở chỗ này. V́ sao có ác đạo? Trong giáo pháp Đại
Thừa, đức Phật đă nói rất nhiều, chúng
ta cũng đă đọc rất nhiều, bây giờ chúng
ta hăy đọc lời chú giải của cụ Hoàng.
“Thủ tứ cú” (bốn
câu đầu) nói về tổng cương lănh, chúng ta vừa
đọc “tổng bao toàn bộ
đại nguyện” (bao gồm toàn bộ đại
nguyện). “Nguyện ngă thành Phật
thời, sở cư chi Phật sát, cụ túc vô lượng
(vô pháp dĩ số lượng biểu thị) thắng diệu
công đức, cụ túc vô lượng thanh tịnh trang
nghiêm” (Nguyện lúc tôi thành Phật, cơi nước tôi ở
có đầy đủ vô lượng (không thể dùng số
lượng nào để biểu thị nổi) công đức
thắng diệu, đầy đủ vô lượng thanh
tịnh trang nghiêm). Đây là nói chung. Hiện nay, nguyện của
Ngài đă tṛn, đă được thực hiện hoàn
toàn, chẳng phải là nói chơi. Ngài đă thực hiện
hoàn toàn, đă làm xong hết, xây dựng thế giới Cực
Lạc xong rồi mới báo cáo. Lúc trước, tôi thường
nói, đó là thánh nhân, chẳng phải là phàm phu, làm xong rồi
mới nói, người ta chẳng thể không tin. Nói
được th́ chắc chắn là phải làm được,
đó là hiền nhân. Nói được mà làm không được
th́ là “phiến nhân” (gạt
người). Tỳ-kheo Pháp Tạng đă làm được,
Ngài tốn hết bao nhiêu thời gian? Trong phần trước
có nói là năm kiếp, thời gian dài như vậy. Thọ
mạng của Phật dài vô lượng, chúng ta nghĩ
năm kiếp là thời gian rất dài, nhưng đối
với các Ngài, năm kiếp chẳng dài lắm, giống
như người trong thế gian chúng ta tốn thời
gian năm năm để xây dựng. Xây dựng một
thế giới như thế nào? Đầy đủ vô
lượng công đức thù thắng nhiệm mầu,
đầy đủ vô lượng thanh tịnh trang nghiêm,
tốt đẹp đến cùng cực, một hoàn cảnh
tu học như vậy đă xuất hiện. Trong phần
trước có nói tới đạo tràng ấy được
thành tựu do tập hợp hoàn toàn tất cả những
điều tốt đẹp của mười
phương cơi nước chư Phật Như Lai. Những
ǵ quư vị nh́n thấy ở cơi Cực Lạc đều
là những sự tốt đẹp, công đức thù thắng,
thanh tịnh trang nghiêm của hết thảy cơi nước
chư Phật, nay đă tập trung vào một chỗ, nên
thế giới đó siêu thắng hết thảy cơi nước
chư Phật. Thế giới Cực Lạc được
xây dựng hoàn thành như vậy.
Phần kế tiếp giải thích “cụ túc” (đầy đủ) nghĩa là ǵ?
Nghĩa là “viên măn”, “châu biến hàm nhiếp, vô khiếm,
vô dư, cố vân cụ túc” (chứa đựng trọn
vẹn, không khuyết, không sót, nên bảo là “cụ túc”),
cũng như chúng ta nói là viên măn, mảy may khiếm khuyết
cũng không có, A Di Đà Phật đă xây dựng thành công. “Sở cụ công đức dữ
trang nghiêm, giai bất khả tư nghị” (Những
công đức trang nghiêm đầy đủ ấy đều
chẳng thể nghĩ bàn), chẳng thể dùng tâm tư để
suy tưởng, quư vị không thể nào nghĩ ra, cũng
chẳng thể dùng ngôn ngữ để bàn luận, chẳng
thể nghĩ, chẳng thể bàn! “Siêu t́nh ly kiến”, trong Đại Thừa Phật
pháp, chữ “t́nh” này dùng để
chỉ thức thứ sáu và thức thứ bảy, “kiến” là năm thức
trước. Trong Phật pháp, cái tâm do phàm phu, tức chúng
sanh trong lục đạo, sử dụng được gọi
là “thức thứ tám”. [Các thức nơi] mắt, tai,
mũi, lưỡi, và thân là năm thức trước, chúng
có tri giác. Ngoài ra, thức thứ sáu có thể tư duy, chúng
ta thường gọi [sự tư duy ấy] là phân biệt;
thức thứ bảy là Mạt Na Thức, tức “t́nh chấp”, chấp trước
thân này là Ta, chấp trước tham, sân, si, mạn. Kế
đó là thức thứ tám, tức A Lại Da Thức, thức
này giống như một kho chứa dữ liệu vậy.
Từ vô thỉ kiếp tới nay, nhiều đời nhiều
kiếp khởi tâm động niệm, hành vi tạo tác của
quư vị đều được lưu trữ đầy
đủ trong A Lại Da Thức. A Lại Da là một kho
chứa dữ liệu, những dữ liệu ấy có thể
lấy ra để coi, chẳng có cách nào chối căi [chúng
chẳng hiện hữu], những dữ liệu ấy được
bảo tồn trong ấy. Ai bảo tồn nó? Chính quư vị
bảo tồn nó. Ai có thể coi những dữ kiện ấy?
Quư vị thấy, trong phần trước đă nói, người
có thần thông, có Tha Tâm Thông, Túc Mạng Thông sẽ có thể
xem những dữ kiện chất chứa trong cái kho dữ
liệu đó. Người có công phu định lực cạn
cợt có thể nh́n thấy một phần [ở tầng
trên], c̣n một phần ẩn sâu hơn ở tầng dưới
họ sẽ không thấy. Người có công phu định
lực sâu, những vị Bồ Tát đă minh tâm kiến
tánh hầu như có thể thấy hoàn toàn, chẳng phải
giả! Nếu quư vị có thể tin, có thể khẳng
định, sẽ giống như chư Phật, Bồ
Tát, không chỉ chẳng làm chuyện tổn hại chúng
sanh, mà ngay cả một tâm niệm ác cũng không dám dấy
lên. V́ sao? V́ chúng sẽ được lưu lại, hết
thảy hữu t́nh chúng sanh trong trọn khắp pháp giới
hư không giới đều biết, quư vị không thể
che giấu ai! Quư vị chỉ có thể gạt chính ḿnh,
đó gọi là “lừa ḿnh, dối
người”, làm chuyện như vậy đó! Ngày nào
đó quư vị giác ngộ, sẽ hiểu rơ hoàn toàn.
V́ vậy, khi hiểu rơ những chân tướng sự
thật này, thái độ và tâm trạng khi chúng ta xử thế,
đối đăi người khác trong hiện tại tự
nhiên sẽ sửa đổi. Thứ nhất là tuyệt
đối sẽ không thể có ác niệm, không thể có
hành vi bất thiện. Thứ nh́ là có thể tha thứ hết
thảy chúng sanh đang tạo tội nghiệp. V́ sao có thể
tha thứ? Họ tạo tội, ta chẳng khác ǵ họ! Thật
vậy, chẳng giả, chỉ là hiện nay họ c̣n đang
mê, ta đă bắt đầu giác ngộ; do vậy, cảm
thấy rất may mắn. Việc ác có sai quấy đến
mấy đi nữa cũng không thể trách họ, tại
sao vậy? Nhân quả mỗi người phải tự
gánh chịu. Tiếp đó, kinh văn nói về ác đạo,
tức ba đường ác, sẽ nói rất rơ ràng về
hai nguyện không đọa ác đạo. Cho nên, ta hăy suy nghĩ
bản tánh của người tạo tội nghiệp vốn
thiện, họ cũng vốn là Phật, Bồ Tát, như
kinh Hoa Nghiêm đă nói “hết thảy
chúng sanh vốn là Phật”, họ xoay chuyển trong ba
đường ác, hứng chịu các loại khổ báo,
chúng ta phải dấy ḷng thương xót, đồng t́nh với
họ, chứ không thể mang ḷng trách mắng. Có thể
giúp được ǵ hay không? Giúp không được. Tại
sao? Nhân quả của ai th́ người đó phải chịu,
chẳng ai có thể thay thế!
Chúng ta tạo ra những nghiệp nặng ấy, có
cách nào cứu chữa hay không? Câu trả lời chắc chắn
là có, chỉ cần quư vị quay đầu lại th́ sẽ
được cứu, quay đầu là bến bờ. Việc
đầu tiên khi bước vào cửa Phật là thọ Tam
Quy Y . Tam Quy Y nghĩa là ǵ? Tam Quy Y là quay đầu, thật
sự giác ngộ. Quy y Phật, Phật có nghĩa là giác,
lúc trước tôi mê hoặc, điên đảo, nay tôi muốn
quay đầu trở lại, điều đó nghĩa là
quy, tức trở về. “Y”
nghĩa là nương tựa, nương tựa tự
tánh giác, tức là nương tựa Phật, Bồ Tát. Phật,
Bồ Tát là tự tánh giác, các Ngài là những người
đă giác ngộ, nay tôi muốn giác nhưng chưa thật
sự giác ngộ, hy vọng các Ngài đến dạy tôi,
có nghĩa là như vậy. Phật, Bồ Tát dùng những điều
ǵ để dạy chúng ta? Trước hết là dùng kinh
điển, quư vị nhập môn bằng kinh điển. Sau
khi căn bản kinh điển đă được vun bồi,
sáu căn của quư vị tiếp xúc cảnh giới sáu trần
toàn là tự tánh giác, vậy là quư vị đă công phu đắc
lực; nghĩa là quư vị đă hoàn toàn vận dụng những
lư luận, đạo lư, trí huệ, phương pháp đă
dạy trong kinh vào đời sống, vào công việc, vào sự
đăi người tiếp vật, chẳng có việc ǵ
quư vị không giác ngộ, quư vị sẽ giống hệt Phật,
Bồ Tát, không khác ǵ hết, chẳng c̣n mê hoặc, điên
đảo nữa, chẳng c̣n có ác niệm nữa, chẳng
c̣n có hành vi bất thiện nữa, quư vị đă thật
sự giác ngộ! Đây là điều thứ nhất trong
Tam Quy Y.
Thứ nh́ là quy y Pháp. Pháp nghĩa là chánh tri chánh kiến.
Hiện thời chúng ta nh́n sai sự việc, suy nghĩ sai
lầm khi suy tưởng các vấn đề, nay chúng ta hăy
xoay những sai lầm ấy lại, từ cách nh́n sai lầm,
cách nghĩ sai lầm, quay lại nương vào cách biết,
cách nh́n đúng đắn (chánh tri chánh kiến). Chánh tri
chánh kiến chính là kinh điển; do vậy, kinh điển
được gọi là Pháp Bảo, chúng ta phải tôn trọng,
phải kính lễ, chớ nên khinh mạn kinh điển. V́
sao? Đó là trí huệ chân thật lưu lộ từ tự
tánh của chính ḿnh. Nếu quư vị khinh thường kinh
điển, tức là khinh thường Tánh Đức,
đạo lư là như vậy. V́ thế, các tổ sư
đại đức mới đề xướng, mới
dạy chúng ta, “một phần
cung kính được một phần lợi ích, mười
phần cung kính được mười phần lợi
ích”. Bất luận tự ḿnh đọc tụng, hay
nghe giảng, quư vị được bao nhiêu lợi ích chẳng
liên quan ǵ tới kinh điển, cũng chẳng liên quan ǵ
tới người giảng kinh, chỉ có liên quan tới
tâm chân thành của quư vị. Quư vị có bao nhiêu phần
chân thành th́ quư vị được bấy nhiêu phần lợi
ích, chỉ liên quan tới tâm chân thành. Do đó có thể biết,
chúng ta học Phật đạt đến cảnh giới
nào, đạt tới mức độ nào, chẳng liên
quan ǵ tới người khác, cũng chẳng liên quan ǵ với
Phật, Bồ Tát, tất cả đều dựa trên tâm
chân thành của ḿnh, quư vị có mấy phần chân thành? Cũng
chẳng do thời gian dài hay ngắn; người này đă
học ba năm, năm năm, c̣n tôi mới học vài ngày,
chẳng sao cả! Người học vài ngày có thể
vượt trội người đă học ba năm,
năm năm. Quư vị chỉ có bốn năm ngày chân thành
bèn có thể vượt hơn người học ba chục,
năm chục năm, nhưng không chân thành. Do đó, thời
gian không quan trọng, quan trọng ở chỗ chân thành,
quan trọng ở chỗ quư vị có thật sự chịu
quay lại hay không. Nếu thật sự quay lại th́ như
đức Phật vừa mới nói, quư vị đă thật
sự quay đầu, quan trọng ở chỗ này. Đó gọi
là quy y Pháp, từ tà tri tà kiến quay trở lại
nương tựa chánh tri chánh kiến.
Thứ ba là quy y Tăng. Tăng là người truyền
pháp; chúng ta gặp Phật pháp nhưng xem không hiểu, phải
thỉnh những người tu hành giải thích cho chúng ta
nghe, chỉ điểm chúng ta. Họ có kinh nghiệm tu học,
họ chia sẻ những kinh nghiệm ấy với chúng
ta, khiến cho chúng ta nghe xong liền hiểu, do đó, gọi
là Tăng Bảo. Chúng ta thật sự quay lại, từ hết
thảy ô nhiễm quay lại nương tựa tâm thanh tịnh,
như vậy th́ mới được lợi ích. Tổ
sư đại đức từ xưa đă tỷ dụ
Phật pháp là đề-hồ. Đề-hồ là thức
uống ngon nhất của Cổ Ấn Độ. Chúng ta muốn
xin người ta một chén đề-hồ, cầm lấy
cái chén, nhưng trong chén ấy có thuốc độc, khi rót
đề-hồ vào chén th́ đề-hồ cũng biến
thành thuốc độc, [điều này ví như] tâm chúng
ta dơ bẩn! Nhận đề-hồ như thế nào?
Trước hết phải rửa sạch cái chén ấy,
sau đó, mới xin người ta rót đề-hồ vào
chén, như vậy th́ quư vị mới thật sự dùng
được. Thí dụ này rất có ư nghĩa, cũng rất
dễ hiểu. Thuốc độc của chúng ta là ǵ? Tham,
sân, si, mạn, nghi là năm thứ thuốc độc! Trong
tâm quư vị có năm thứ này, Phật, Bồ Tát tặng
cho quư vị Vô Thượng Bồ Đề, cũng giống
như trong đề-hồ có lẫn một giọt thuốc
độc, cả chén đề-hồ biến thành thuốc
độc. Mảy may chất độc ǵ cũng không thể
xen lẫn vào đó th́ mới thật sự đạt
được diệu pháp vô thượng. Bài kệ khai
kinh vừa mở đầu liền nói “vô thượng thậm thâm vi diệu pháp”. Thái
độ căn bản để học tập là tâm thanh
tịnh. Tâm chúng ta thường không thanh tịnh, lúc học
tập, chúng ta hăy buông xuống cái tâm chẳng thanh tịnh ấy,
phải dùng tâm thanh tịnh để nghe, tuy thời gian rất
ngắn, thời gian sử dụng cái tâm thanh tịnh chỉ
là một giờ hay nửa giờ, quư vị sẽ
được lợi ích một giờ hay nửa giờ.
Tâm không thanh tịnh, chắc chắn chẳng đạt
được lợi ích! Nghe giảng kinh như vậy chẳng
phải là đă uổng phí hay sao? Chẳng uổng phí. Như
vậy nghĩa là sao? Dù thế nào đi nữa, đă gieo một
hạt giống trong A Lại Da Thức, thật vậy, chẳng
giả! Nhưng người ấy hiện thời chẳng
thể lư giải, chẳng hiểu, nên chẳng thể thọ
dụng. Đến lúc nào mới được thọ dụng?
Đến lúc nào khôi phục tâm thanh tịnh, lúc đó sẽ
được thọ dụng. Như vậy mới gọi
là Tam Quy Y thật sự. Do đó, Tam Quy Y chẳng phải
là dễ dàng!
Nay chúng ta là người mới bắt đầu học,
mới thọ Tam Quy Y, xin thưa với quư vị, đó gọi
là Danh Tự Quy Y, hữu danh vô thực, tức là chỉ có
h́nh thức, chẳng có thực chất. Đồng thời,
lúc chúng ta thọ Tam Quy Y, người thầy truyền Tam
Quy Y cũng chẳng nói rơ ràng, [phần nhiều] là như vậy.
Quy y xong, rốt cuộc là quy y cái ǵ? Không biết, [cứ
khoe] tôi đă quy y Tam Bảo rồi. Tam Bảo nghĩa là
ǵ? Phật, Pháp, Tăng. Phật, Pháp, Tăng là ǵ? Không biết.
Kinh dạy quư vị thật sự tiếp nhận Tam Quy sẽ
được ba mươi sáu vị thần hộ pháp
ngày đêm bảo vệ, hộ tŕ, sẽ không gặp tai nạn
v́ có thần hộ pháp che chở quư vị. Nhưng nếu
không phải là quy y thật sự, thần hộ pháp sẽ
không đến; quy y thật sự mới được;
thật sự tŕ giới mới có thần hộ giới.
Chẳng phải là thọ giới xong bèn có thần hộ
giới, thọ Tam Quy liền có thần hộ pháp, chẳng
có lẽ ấy! Chúng ta phải hiểu rơ ràng, minh bạch những
việc này; đó là sự thật, tuyệt đối không
phải là mê tín. Do đó mới nói “bất khả tư
nghị, siêu t́nh ly kiến”.
“Phi tư lượng
phân biệt chi sở năng tri” (Chẳng phải do suy
nghĩ phân biệt mà có thể biết được), “tư” (思) là thức thứ bảy, phân biệt
là thức thứ sáu, nghĩa là tuyệt đối không phải
do thức thứ sáu và thức thứ bảy mà có thể
duyên được [cảnh giới này]. “Phi ngữ ngôn văn tự chi sở năng biểu
(chẳng phải do ngôn ngữ văn tự mà có thể
diễn tả), văn tự là phù hiệu của ngôn ngữ.
Trong Khởi Tín Luận, Mă Minh Bồ Tát dạy chúng ta
phương pháp nghe giảng kinh, thứ nhất là không chấp
trước tướng ngôn thuyết. Cần nên biết:
Khi chúng ta đọc kinh, đừng chấp trước
tướng văn tự, tại sao vậy? Ngôn ngữ và
văn tự là công cụ, có thể nói toạc chân tướng
hay không? Thưa quư vị, chẳng thể nói được,
đấy gọi là chẳng thể nghĩ bàn, thật đấy!
Nhưng tách ĺa ngôn ngữ văn tự sẽ không có cách ǵ
khác, chắc chắn quư vị t́m không ra, cho nên phải dùng
ngôn ngữ văn tự để làm phương tiện
dẫn dắt quư vị. Ví như đi bộ, quư vị
không biết đường, người ta đặt bảng
chỉ dẫn ở ven đường để quư vị
biết hăy theo phương hướng nào, đi theo con
đường nào; nhưng quư vị đừng chấp
trước, nh́n thấy bảng chỉ đường
ghi hướng này đến Bắc Kinh, vừa nh́n liền
biết Bắc Kinh ở phía đó, liền cho rằng quư vị
đă đến Bắc Kinh rồi, vậy là sai lầm,
sai lầm quá đỗi! Ngôn ngữ, văn tự giống
như bảng chỉ đường, quư vị cứ
đi theo [lời chỉ dẫn ấy], nhưng phải
buông bỏ, đừng chấp trước nó. Nhắm theo
phương hướng ghi trên bảng chỉ đường
rồi cứ đi theo phương hướng ấy, chắc
chắn sẽ đi đến đích, mục đích chính
là minh tâm kiến tánh, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Đoạn này nhằm giải thích câu “bất khả tư nghị”
[trong lời chú giải].
Câu kế tiếp là: “Hoa
Nghiêm Kinh độc minh Sự Sự vô ngại chi bất
khả tư nghị cảnh giới” (chỉ ḿnh kinh
Hoa Nghiêm nói đến cảnh giới chẳng thể
nghĩ bàn: Sự Sự vô ngại). Hoa Nghiêm là một bộ
kinh vô cùng trọng yếu trong Phật giáo Đại Thừa.
Con người thời đại chúng ta rất đáng
thương, rất khổ! Sống trong thời đại
động loạn hiện nay, lịch sử toàn thế
giới chưa từng hỗn loạn như ngày nay. Chúng
sanh thiếu phước, tôi cũng thiếu phước
báo, mấy chục năm qua cứ nghĩ sẽ có một
nơi có thể ổn định để có thể cùng
với những đồng học hữu duyên học tập
những kinh điển Đại Thừa này, có thể giảng
một phen cho hoàn chỉnh. Thuở trước, lúc Thích Ca
Mâu Ni tại thế, giảng kinh mỗi ngày; tôi hiểu Ngài
không chỉ giảng tám giờ mà thôi. Đời Đường,
Thanh Lương quốc sư lăo nhân gia trụ ở
Ngũ Đài Sơn, giảng kinh Hoa Nghiêm mỗi ngày, tôi
đoán ít nhất mỗi ngày cũng giảng tám giờ. Lăo
nhân gia giảng suốt năm mươi năm, giảng tới
năm chục lần, có được bao nhiêu người
khai ngộ. Ngày nay, chúng ta không có phước báo như vậy,
tới đâu cũng có chướng duyên. Cá nhân tôi kể
ra cũng khá may mắn, tôi không bị trở ngại, mỗi
ngày tôi đọc kinh không gián đoạn, nhưng chẳng
có cơ hội chia sẻ cùng đại chúng, nói tới
chướng ngại th́ chỉ có một điều này mà
thôi. Đây là cơ duyên của chúng sanh hữu duyên nghe pháp
bị chướng ngại, nghe pháp bị chướng ngại,
chẳng chướng ngại tôi, tôi chẳng đọa lạc,
chẳng đi vào tà đạo. Do đó có thể biết: Một
người thật sự phát tâm tinh tấn không giải
đăi, có người nào có thể chướng ngại
người đó hay không? Không có, không thể nào! Có thể
chướng ngại điều ǵ? Nếu quư vị có tiếng
tăm, lợi dưỡng, nó sẽ chướng ngại
quư vị, [tức là] chướng ngại tiếng tăm,
lợi dưỡng của quư vị. Người tu hành
[chân chánh] không cần những thứ ấy, người
tu lấy nó để làm ǵ? Cho nên nó không thể nào chướng
ngại quư vị. Những thứ phá hoại, chướng
ngại quư vị, làm cho người ta mất ḷng tin, chẳng
chịu học theo quư vị, những thứ ấy có liên
can ǵ với chúng ta hay không? Không liên can, chẳng chướng
ngại chúng ta ǵ cả. Những thứ ấy gây chướng
ngại chúng sanh, đoạn dứt duyên “nghe pháp, nghe kinh” của
chúng sanh; trong tương lai dựa theo giới luật
để luận tội, để kết tội họ,
chẳng kết tội ta, chẳng liên can ǵ tới ta. Sau
khi quư vị hiểu rơ chân tướng sự thật, sẽ
hoảng nhiên đại ngộ, sẽ hiểu rơ, quư vị
khởi tâm động niệm, hành động, đă tạo
tác những ǵ? Trong tương lai sẽ tiếp nhận quả
báo ǵ? Quư vị bèn hiểu rơ ràng rành mạch.
Trong đời này, tôi đă giảng kinh Hoa Nghiêm hai lần,
đều chưa giảng xong. Lần thứ nhất là
khoảng ba mươi mấy năm về trước,
nhưng giảng không được liên tục v́ thường
phải ra nước ngoài; mỗi năm chỉ giảng
được ba, bốn tháng, gần như là như vậy,
mỗi năm chỉ giảng được ba, bốn tháng,
kéo dài mười mấy năm mới giảng được
phân nửa. Lúc đó, chúng tôi chẳng có những thiết bị
khoa học kỹ thuật này, ngay cả máy thâu âm cũng
không có. Lần thứ nh́, năm 1999 hay 1998? H́nh như là
1999, chúng tôi di dân sang Tân Gia Ba, cư sĩ Lư Mộc Nguyên thỉnh
tôi giảng lại kinh ấy, giảng măi cho đến bây
giờ. Đă giảng hết hơn bốn ngàn giờ,
chưa tới năm ngàn giờ, giảng tới phẩm
Thập Trụ, chỉ được một phần
năm bộ kinh mà đă bốn ngàn giờ rồi! Nếu
giảng hết bộ kinh, cứ tính là bốn ngàn giờ,
bốn nhân bốn là mười sáu ngàn giờ, tôi tính
sơ sơ phải dùng hai chục ngàn giờ để giảng
viên măn bộ kinh ấy. Do đó, thiếu hoàn cảnh sẽ
không được, phải có hoàn cảnh trụ ở một
nơi, không đi đâu nữa, hiện nay, với tinh thần
và thể lực của tôi mỗi ngày giảng bốn giờ
đồng hồ không thành vấn đề, không cảm
thấy mệt mỏi. Quư vị nghĩ coi, mỗi ngày bốn
giờ, mười ngày bốn chục giờ, một
trăm ngày bốn trăm giờ, một năm tính ba
trăm sáu mươi ngày, tôi tin khoảng mười
năm sẽ có thể giảng trọn bộ kinh Hoa Nghiêm.
Tôi giảng rất kỹ, giảng kỹ như kinh [Vô
Lượng Thọ] này. Nếu thật sự có duyên phận
như vậy, trụ tại địa phương này hai
mươi năm, ba mươi năm đừng đi
đâu hết, sẽ thành công viên măn. Cho nên việc này tùy
thuộc chúng ta có phước báo hay không? Nếu thiếu
phước báo, sẽ chẳng có cách nào hết! Đây là
phước báo rất lớn, chẳng phải là phước
báo nhỏ nhoi, có thể nói là phước báo hy hữu từ
xưa tới nay. Chỉ riêng kinh Hoa Nghiêm nói rơ, các kinh
điển khác không có, chỉ có kinh Hoa Nghiêm nói tới cảnh
giới Sự Sự vô ngại chẳng thể nghĩ bàn.
“Tường chi tắc
vi thập huyền diệu môn, tiền ư Phán Giáo nhất
tiết trung tằng thiển thuật chi” (Nói đầy
đủ là mười huyền diệu môn như trong phần
Phán Giáo ở phần trước đă tŕnh bày sơ lược).
Đối với đoạn này, trong phần Khái Yếu ở
phía trước, cũng đă báo cáo tường tận “mười
huyền môn”. “Kim kinh” (trong
kinh này), nay chúng ta xem kinh này, “A
Di Đà Phật tức thị Tỳ Lô Giá Na Như Lai” (A Di
Đà Phật chính là Tỳ Lô Giá Na Như Lai), A Di Đà Phật
là Báo Thân Phật, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân Phật, Pháp Thân
là Thể, Báo Thân là Tướng, Ứng Hóa Thân là tác dụng
(Dụng). Kinh Hoa Nghiêm nói về Thể, Tướng, Dụng,
dùng ba chữ “Đại
Phương Quảng” để biểu thị. Đại
là Pháp Thân, Phương là Báo Thân, Quảng là Ứng Hóa Thân;
Quảng là tác dụng, tức tác dụng rộng lớn. Một
tức là ba, ba tức là một, ba thân Phật này là ai? Xin
thưa với quư vị, đó là ba thân Phật trong tự
tánh của chính ḿnh. A Di Đà Phật là ai? Là Báo Thân của
chính ḿnh, Tỳ Lô Giá Na là Pháp Thân của chính ḿnh. Do đó, hết
thảy chư Phật, Bồ Tát là Ứng Hóa Thân của
chính ḿnh, Tự và Tha là một, chẳng phải hai, đó gọi
là Sự Sự vô ngại. Học Phật thường nói
đến “chứng quả”, chứng quả ǵ? Mục
tiêu chung cực là “chứng được ba thân chính là một
thân của chính ḿnh”, đó gọi là “chứng đắc”. Pháp
Thân Tỳ Lô Giá Na (Vairocana), danh hiệu này là tiếng Ấn
Độ, dịch nghĩa là Biến Nhất Thiết Xứ
(trọn khắp mọi nơi); nói cách khác, Pháp Thân chẳng
có giờ phút nào không tồn tại, chẳng có nơi nào
không tồn tại, Pháp Thân chẳng có h́nh tướng. Dùng
cách nói hiện thời, Pháp Thân chẳng phải là vật
chất, mà cũng chẳng phải là tinh thần, Pháp Thân
là bản thể của vật chất và tinh thần, gọi
theo danh từ Triết Học là Bản Thể. Vật chất
từ đâu tới? Tinh thần từ đâu tới? Là từ
Pháp Thân biến hiện ra, nhưng bản thân của nó chẳng
phải là vật chất, chẳng phải là tinh thần. Trong
Phật pháp, Pháp Thân có rất nhiều danh xưng. Trong kinh
Phật, nó có tối thiểu hơn năm mươi danh
xưng. Tại sao đức Phật dùng nhiều danh
xưng như vậy để diễn tả cùng một
chuyện? Nhằm dạy chúng ta đừng chấp trước
danh tướng, danh tướng là giả, quư vị chỉ
hiểu ư nghĩa của nó là được rồi, hễ
chấp trước bèn trật, chấp tướng mà! Đây
là Phật, Bồ Tát khéo léo dạy chúng ta đừng chấp
trước danh tướng, phải hiểu rơ thực chất
th́ quư vị mới có thể ngộ nhập.
[Nói tới] A Di Đà Phật là đă có tướng rồi,
Ngài thật sự có thân thể, giống như chúng ta hiện
nay vậy, thân thể ấy do đâu mà có? Do Pháp Thân mà có. Thân
thể này của chúng ta do đâu mà có? Xin thưa với quư
vị, cũng từ Pháp Thân mà có. Vậy th́ tại sao
tướng chúng ta lại khác thân tướng của A Di
Đà Phật? V́ tâm của A Di Đà Phật thanh tịnh,
c̣n tâm của chúng ta ô nhiễm. Trong tâm của A Di Đà Phật
không chỉ chẳng có tham, sân, si, mạn, mà phân biệt, chấp
trước cũng chẳng có. Không chỉ chẳng có phân
biệt, chấp trước, mà khi sáu căn gặp cảnh
giới sáu trần, Ngài cũng chẳng khởi tâm động
niệm, đó gọi là Báo Thân. Nếu khởi tâm động
niệm, sẽ chẳng gọi là Báo Thân, mà gọi là Ứng
Hóa Thân. Thân của chúng ta là Ứng Hóa Thân, Ứng Hóa Thân ǵ
vậy? Ứng Hóa Thân của nghiệp báo thiện ác, cấp
bậc rất thấp! Nói đơn giản, thân của
chúng ta là thân nghiệp báo thiện ác; đời trước
tạo nghiệp thiện, đời này hưởng
phước ở cơi người, đó là có phước
báo. Đời trước tạo rất nhiều nghiệp
ác, đời này chịu khổ trong cơi người. Chịu
khổ chịu nạn là nghiệp báo, [hết thảy quả
báo] đều có nhân. Nhà Phật thường nói: “Vạn pháp đều không, nhân
quả chẳng không”, và “thiện
hữu thiện báo, ác hữu ác báo, bất thị bất
báo, thời thần một đáo (thiện có thiện
báo, ác có ác báo, chẳng phải là không báo, mà là thời giờ
chưa tới). “Thời thần”
là ǵ? Nay quư vị hưởng phước là do thiện
nhân, thiện nghiệp của quư vị đă tạo đời
trước, đợi tới lúc quả báo của thiện
nghiệp ấy đă hết, lúc đó gọi là “thời
giờ đă đến”. Thiện nghiệp báo đă hết,
sau khi báo hết th́ sao? Trong A Lại Da Thức của quư vị
vẫn c̣n có ác nghiệp, ác nghiệp ấy sẽ hiện
tiền; nó hiện tiền, quư vị sẽ chịu ác báo. Khi
hứng chịu trọn hết ác báo, quư vị sẽ sanh trong
cơi người, cho nên cơi người giống như một
trung tâm trao đổi, quư vị sẽ đầu thai trong
nhân gian. Do đó có thể biết, ba cơi thiện nhằm
tiêu thiện nghiệp của quư vị, đó gọi là tiêu
nghiệp! Ba cơi ác là nơi tiêu ác nghiệp, hết thảy
đều tiêu hết rồi mới tới cơi người
để tu hành. Khi đến cơi người, quư vị lại
tạo nghiệp. Nếu tạo ác nghiệp th́ lại sanh vào
ba cơi ác; nếu tạo thiện nghiệp, sẽ sanh lên cơi
trời hay trong cơi người để hưởng
phước.
Do đó, điều quư nhất, quư vị hăy xem trên thế
giới này có bao nhiêu người? Có bao nhiêu người gặp
gỡ Phật pháp? Được nghe Phật pháp? Dựa theo
cách nói của các nhà tôn giáo trên thế giới, đại
khái là một phần mười, chưa tới phân nửa,
chỉ có một phần mười [được gặp
Phật pháp]. Hiện nay chúng ta biết đại lược,
trong những người có tín ngưỡng tôn giáo trên thế
giới hiện thời, số người tin Cơ Đốc
Giáo và Thiên Chúa Giáo nhiều nhất, [tín đồ] hai tôn giáo
này cộng lại đại khái hơn hai tỷ người,
chiếm một phần ba dân số thế giới. Kế
đó là tín đồ Islam (Hồi Giáo). Các bạn Hồi
Giáo nói với tôi đại khái người theo Hồi Giáo
trên toàn thế giới là một tỷ rưỡi người,
đông như vậy. Người theo Phật Giáo trên thế
giới đại khái có khoảng bảy trăm triệu,
khoảng một phần mười dân số toàn thế
giới, [tức là] trong mười người chỉ có
một người theo Phật Giáo. Đấy là ba tôn giáo
lớn nhất trên thế giới. Chúng ta thử hỏi,
người tin Phật Giáo, coi như bảy trăm triệu
người, có bao nhiều người thật sự gặp
được chánh pháp? Chúng tôi dùng con số là một phần
mười, thật đó, có lẽ chỉ có một phần
mười, sợ c̣n chưa tới mức đó, [phần
nhiều] là không gặp được chánh pháp. Những
người gặp được chánh pháp có thật sự
tin tưởng [Phật pháp] hay không? Những người
thật sự tin tưởng có thật sự hiểu rơ
hay không? Người hiểu rơ có thật sự tu hành hay
không? Cứ loại bỏ từng tầng như vậy, loại
bỏ tới cuối cùng, đúng là có lẽ vẫn chưa
tới một vạn người, càng loại bỏ, càng
ít! Người gặp được Tịnh Độ
Tông, thật sự niệm Phật văng sanh có được
khoảng một vạn người hay không? Tôi nghĩ có
thể như vậy, những đồng tu Tịnh Tông thật
sự văng sanh tôi tin tưởng là có số người chừng
ngần ấy. Được như vậy là rất khá rồi,
bộ kinh Vô Lượng Thọ này đă giúp chúng ta quá nhiều.
Hiện nay, đối với những người học
Phật trên thế giới, trong số người thật
sự học Phật, Tịnh Độ Tông vẫn chiếm
đa số. Trong Tịnh Độ Tông, điều quan trọng
nhất là phải đoạn dứt nghi ngờ, sanh khởi
ḷng tin, dùng phương pháp ǵ để đoạn dứt
nghi ngờ? Dùng kinh điển, khi thật sự hiểu
rơ ràng, rành rẽ kinh điển, sẽ không mê hoặc, mới
có thể xây dựng ḷng tin. Đời này chúng ta đă xác
định mục tiêu và phương hướng rồi,
một phương hướng là Tây Phương Cực Lạc
thế giới; một mục tiêu là thân cận A Di Đà
Phật, nhất định không thay đổi
[phương hướng và mục tiêu này]! Những sự
việc khác đều là phụ, có thể làm hay không làm [cũng
chẳng sao]. Nghiệp phụ không thể gây chướng
ngại cho nghiệp chánh của chúng ta, nghiệp chánh là niệm
Phật cầu sanh Tịnh Độ, không thể gây
chướng ngại. Nếu đời này có thể văng
sanh thế giới Cực Lạc, chúng ta đă thành công rồi.
A Di Đà Phật rất khổ nhọc, chúng ta rất cảm
ơn Ngài, Ngài đă dùng năm kiếp để xây dựng
cơi Cực Lạc. Chúng ta th́ sao? Chỉ cần chúng ta dùng một
chút công phu, từ ba năm tới năm năm chúng ta sẽ
thành công, chúng ta văng sanh thế giới Cực Lạc sẽ
b́nh đẳng với Ngài. Nói cách khác, Ngài dùng năm kiếp,
chúng ta dùng năm năm liền b́nh đẳng, chẳng giả
chút nào! Thật sự muốn văng sanh, chúng ta phải biết
một điều kiện quan trọng nhất là phải
bỏ sạch những sự việc thuộc thế gian
này, chớ nên có mảy may lưu luyến nào th́ quư vị mới
có thể văng sanh. Chẳng có mảy may lưu luyến nào th́
quư vị mới hiểu được kinh này, mới có
thể nghe hiểu. Tại sao nghe không hiểu? V́ quư vị
có chướng ngại, c̣n có vướng bận đối
với thế gian này, chưa buông xuống được,
nên quư vị nghe không hiểu. Quư vị buông xuống càng nhiều
sẽ hiểu càng nhiều; buông xuống hết sạch sẽ
hiểu rơ hoàn toàn; chẳng giảng quư vị cũng hiểu,
thật đấy! Nếu không chịu buông xuống, dù A
Di Đà Phật tới giảng cho quư vị, quư vị
cũng chẳng hiểu. Chúng ta phải hiểu rơ ràng những
đạo lư này.
Câu kế tiếp “Cực
Lạc Tịnh Độ hà dị Hoa Tạng thế giới”
(Cực Lạc Tịnh Độ nào khác thế giới Hoa
Tạng), giống hệt nhau. Thế giới Cực Lạc
là Pháp Tánh Độ, thế giới Hoa Tạng cũng là
Pháp Tánh Độ. Giảng kinh Hoa Nghiêm lần này, tôi khai giảng
ở Tân Gia Ba, sau khi rời Tân Gia Ba, chúng tôi giảng kinh chẳng
gián đoạn. Khi ở Tân Gia Ba, tôi đă nêu một tỷ
dụ, v́ nhiều người không hiểu rơ Hoa Tạng và
Cực Lạc, tôi đă dùng Tân Gia Ba để tỷ dụ.
Tôi nói thế giới Hoa Tạng ví như thành phố Tân Gia
Ba này, đó là một quốc gia đô thị (city-state), thế
giới Cực Lạc là đường Ô Tiết (Orchard
Road), tức là một phố phồn hoa nhất ở Tân
Gia Ba. Tôi nói đường Ô Tiết là thế giới Cực
Lạc, Tân Gia Ba là thế giới Hoa Tạng. Thế giới
Cực Lạc là một con đường đẹp đẽ,
tuyệt diệu nhất trong thế giới Hoa Tạng. Nói
như vậy mọi người sẽ hiểu, Cực Lạc
và Hoa Tạng là một, chẳng hai. Sanh về thế giới
Hoa Tạng cũng là sanh về thế giới Cực Lạc;
sanh về thế giới Cực Lạc nghĩa là đă ở
trong thế giới Hoa Tạng. Vậy th́ quư vị hăy
nghĩ xem, nếu quư vị không tu pháp môn Tịnh Độ
mà muốn tới thế giới Hoa Tạng, khó khăn biết
bao! Phải qua nhiều tầng thử thách. Tầng thứ
nhất là lục đạo luân hồi, nếu quư vị
có thể vượt thoát sẽ đến tứ thánh pháp
giới, đấy là [vượt qua] bốn tầng Thanh
Văn, Duyên Giác, Bồ Tát, Phật, quư vị mới có thể
đại triệt đại ngộ, minh tâm kiến tánh, đúng
là chẳng dễ! Tu hành trong thế giới chúng ta, dù quư vị
tu đến Sơ Thiền, Nhị Thiền đều chẳng
dễ dàng ǵ, huống chi tu đến Tứ Không Thiên vẫn
chưa vượt thoát lục đạo luân hồi. Gặp
được pháp môn “chấp tŕ danh hiệu, vượt
ngang ra khỏi tam giới” này, chính là chẳng tốn sức
lực ǵ mà quư vị có thể vượt thoát mười
pháp giới. Sanh đến thế giới Cực Lạc,
quư vị sẽ là A Duy Việt Trí Bồ Tát, t́m ở đâu
ra sự lợi ích chân thật này? Trong hết thảy các kinh
điển, trừ kinh Vô Lượng Thọ ra, quư vị
t́m chẳng được! Quư vị t́m trong kinh Hoa Nghiêm,
kinh Hoa Nghiêm tới cuối cùng vẫn phải dùng đến
kinh Vô Lượng Thọ, nếu không sẽ chẳng viên
măn. Do vậy, chúng ta mới biết hết thảy các kinh
quy về kinh Hoa Nghiêm, kinh Hoa Nghiêm đến cuối cùng quy
về Vô Lượng Thọ. Do có kinh Vô Lượng Thọ,
mọi người đều có thể thành tựu ngay
trong đời này, như thường nói là “vạn người tu, vạn
người đến”. Nếu quư vị không đến
được là v́ quư vị tu chẳng đúng pháp, do tu
không đúng lư, không đúng pháp, nên chẳng thể văng sanh.
Nếu quư vị tu học đúng lư, đúng, chẳng ai không
thành công! Đoạn này dẫn kinh Hoa Nghiêm, quan trọng nhất
là cảnh giới Sự Sự vô ngại này.
“Cực Lạc Y Chánh”, [nói về]
y báo và chánh báo. Y báo là hoàn cảnh cư trú, chánh báo là những
người cư trú trong cơi Cực Lạc. Phật, Bồ
Tát “cử thể thị Sự
Sự vô ngại bất khả tư nghị cảnh giới,
nhất nhất viên cụ vô tận huyền môn” (toàn thể
là cảnh giới sự sự vô ngại chẳng thể
nghĩ bàn, thứ nào cũng đầy đủ trọn
vẹn vô tận huyền môn), vô
tận huyền môn chính là mười huyền môn như chúng
ta đă học trong phần trước. Vô tận huyền
môn quy nạp thành mười loại gọi là mười
huyền môn, Sự Sự vô ngại huyền môn là một
trong mười huyền môn, “cố
viết: “Cụ túc vô lượng bất khả tư nghị
công đức trang nghiêm” (nên nói: “Đầy đủ
vô lượng công đức trang nghiêm chẳng thể
nghĩ bàn”). Nói không hết, chẳng có cách nào tưởng
tượng, Phật, Bồ Tát, tổ sư sau cùng nói một
câu “duy chứng phương
tri” (chỉ có tự chứng mới biết được).
Làm sao chứng được? Quư vị văng sanh tới Thế
giới Cực Lạc sẽ chứng, sẽ biết. Đến
thế giới Cực Lạc, quư vị mới thật sự
biết được. Qua kinh sách, qua sự chia sẻ của
chúng tôi, nói thật ra, so với những công đức
trang nghiêm thật sự trong thế giới Cực Lạc,
thưa thật với quư vị, chúng ta cũng chưa hiểu
được một phần vạn. Khi quư vị đến
thế giới Cực Lạc, quư vị mới nh́n thấy
đại viên măn, tại sao lại không đi?
Do công đức trang nghiêm không thể nghĩ bàn, “cố năng linh chúng sanh,
văn danh đắc phước, văn danh phát tâm, thập
niệm tất sanh, kính đăng Bất Thoái” (nên có thể
khiến cho chúng sanh nghe tên được phước, nghe
danh hiệu phát tâm, mười niệm ắt được
văng sanh, mau chứng ngôi Bất Thoái). Quư vị thấy dễ
dàng biết bao! Nghe danh hiệu được phước,
nghe danh hiệu phát tâm, đều là thật. Nhưng trên thực
tế, chúng ta nghe danh chưa được phước,
chúng ta nghe danh chưa phát tâm được, như vậy
là phải nghiên cứu kỹ lại chữ “nghe” này! Chữ
“nghe” ở đây chẳng phải là chữ “nghe” thông
thường, mà là Văn Huệ của Bồ Tát. Người
mới học Phật nhập môn từ nơi nào? Từ
Tam Học Giới, Định, Huệ để nhập môn.
Đến giai đoạn Bồ Tát, những thứ các
Ngài tu hành không gọi là Tam Học nữa, mà gọi là Tam Huệ.
Tam Huệ là ǵ? Văn, Tư, Tu, tŕnh độ đă được
nâng cao rồi.
Văn Tư Tu là ǵ, đa số rất khó hiểu rơ.
Thuở trước, khoảng bốn mươi, năm
mươi năm trước, tôi giảng kinh đến nay
đă được năm mươi hai năm, đại
khái là trong khoảng mười năm đầu kể từ
lúc tôi bắt đầu giảng kinh. Lúc đó lăo pháp sư
Đạo An ở Đài Loan chủ tŕ khóa thuyết giảng
Đại Chuyên Phật Học của Trung Quốc Phật
Giáo Hội, mỗi Chủ Nhật giảng một ngày, lợi
dụng thời gian sinh viên nghỉ hè, sinh viên nào có hứng
thú đối với Phật pháp có thể đến nghe
giảng. Tôi nhớ [khóa giảng này] rất thù thắng,
người ghi danh học lên đến hơn tám trăm sinh
viên, [họ đến từ] mười mấy trường
ở những khu vực phía Bắc Đài Loan. Một ngày
nọ có một sinh viên, một nữ sinh viên sinh đến
nói với tôi: “Thưa pháp sư! Hôm nay con nghe hết buổi
giảng này, lần sau con sẽ không đến nữa”.
Tôi hỏi: - Tại sao vậy?
Cô nói: - Bây giờ con đă hiểu đạo lư Văn,
Tư, Tu. Con đă nghe kinh hơn hai năm rồi, đă có Văn
rồi.
Nghe xong tôi nói: - Con không đến nữa, con về
nhà để Tư phải không?
Cô ta thưa: - Dạ phải.
Tôi nói: - Con Tư hai ba năm rồi mới Tu, phải
không?
- Dạ phải.
- Ồ, vậy th́ hôm nay nghe hết bài giảng này rồi
hăy tính nữa.
Tôi bèn giải thích cặn kẽ về Văn Tư Tu
[trong bài giảng hôm đó], nếu hiểu Văn Tư Tu như
vậy th́ là hoàn toàn sai lầm. Quư vị nghe hai năm, nghe
ǵ? “Đạo thính, đồ
thuyết” (nghe những lời nói thiếu căn cứ),
chẳng phải là Văn. Tư ǵ? Suy nghĩ loạn xạ.
Tu ǵ? Tu mù luyện đui! Nếu quư vị Văn Tư Tu như
vậy, chẳng phải là trật lất hay sao? Tôi nói quư
vị là những người mới bắt đầu học,
phải tu Tam Học Giới Định Huệ. Trong Tam Học
ấy, đă đạt được Huệ rồi th́ mới
gọi là Tam Huệ. Tam Huệ ǵ? Văn Huệ, Tư Huệ,
Tu Huệ, Văn Tư Tu được hoàn thành cùng lúc, chẳng
phải chia thành ba thứ riêng biệt. Văn nghĩa là ǵ?
Tiếp xúc hoặc nghe đến, hoặc là nh́n thấy. Vừa
nghe, [Nhĩ Căn] tiếp xúc gọi là Văn Huệ,
nghĩa là vừa nghe liền hiểu rơ. Hiểu rơ là Tư
Huệ. Lúc vừa hiểu rơ liền phá mê, khai ngộ,
đó là Tu Huệ. Do vậy, Văn Tư Tu được
hoàn thành cùng lúc, chẳng chia thành ba giai đoạn. C̣n Giới
Định Huệ đúng là phải chia ra ba giai đoạn,
trước hết giữ Giới rồi mới đắc
Định, do Giới đắc Định, nhờ Định
khai Huệ, gồm ba giai đoạn! C̣n Văn Tư Tu th́ chẳng
phải vậy, Văn Tư Tu được hoàn thành ngay
trong một niệm. Tôi giảng xong buổi giảng hôm ấy,
hỏi cô sinh viên ấy: “Ngày mai con có đến nghe giảng
nữa hay không?” Cô ta thưa: “Dạ, con sẽ đến”.
Tôi nói: “Vậy th́ cũng c̣n cứu văn được”. Chớ
nên hiểu lầm điều này! Do đó mới biết sự
tu hành của Bồ Tát đích thực cao minh hơn chúng ta quá
nhiều, chúng ta làm sao có trí huệ như vậy được!
Do vậy, Tư nghĩa là hiểu rơ, Tu nghĩa là sửa chữa
sai lầm, chúng ta thường nói là “phá mê, khai ngộ”, mê
chẳng c̣n nữa. Sau khi hiểu rơ, chẳng c̣n mê nữa.
Do đoạn dứt mê nên gọi là Tu, do giác ngộ nên gọi
là Tư Huệ, lúc tiếp xúc gọi là Văn Huệ, dùng
chữ [Văn] này làm đại biểu [tất cả những
sự tiếp xúc giữa lục căn với ngoại cảnh],
trí huệ hiện tiền. V́ vậy, dùng Tam Huệ của
Bồ Tát th́ mới “nghe danh hiệu
được phước”, v́ sao? Quư vị vừa nghe
danh hiệu A Di Đà Phật, liền hiểu rơ, liền
buông bỏ bất cứ pháp môn nào đă tu trước
đó, chuyên tâm niệm Phật, không phải là quư vị
được phước hay sao? Trước kia, tu những
pháp môn khác nhất định phải đoạn phiền
năo, nếu chẳng đoạn phiền năo sẽ không thể
nâng cao cảnh giới. Nay biết pháp môn niệm A Di Đà
Phật này, phước báo bậc nhất, trí huệ bậc
nhất, vô lượng công đức trang nghiêm đều
thuộc trong một câu Phật hiệu này, như vậy
không phải là phước báo hay sao? Đó là phước
báo to lớn! Quư vị hiểu rơ rồi. Cho nên Văn ở
đây là Tam Huệ.
Kế tiếp là “văn
danh phát tâm” (nghe danh phát tâm), trí huệ hiện tiền, lẽ
nào chẳng phát tâm? Phát tâm ǵ? Phát tâm đến thân cận A
Di Đà Phật. Xin thưa với quư vị, phát tâm thân cận
A Di Đà Phật chính là Vô Thượng Bồ Đề
tâm. Quư vị nghĩ Bồ Đề tâm nghĩa là ǵ? Không
phải là thành Phật đạo, độ chúng sanh hay
sao? Không phải là ư nghĩa này hay sao? Đến thế giới
Cực Lạc, thấy A Di Đà Phật, đạt
được mục tiêu “thành Phật đạo, độ
chúng sanh”. Trong Di Đà Kinh Yếu Giải, Ngẫu Ích đại
sư đă nói: “Phát nguyện
văng sanh chính là phát Vô Thượng Bồ Đề tâm”. V́
rất nhiều người nghi ngờ rằng: Rất nhiều
ông cụ, bà cụ nhà quê niệm Phật văng sanh, họ
không biết chữ, chưa từng đi học, chỉ
biết niệm câu A Di Đà Phật này, ngoài câu Phật hiệu
ra, cái ǵ cũng không biết, cớ sao lúc họ văng sanh có
nhiều tướng lành như vậy? Họ chẳng sanh
bệnh, biết trước lúc mất, đứng văng
sanh, ngồi văng sanh. Trong kinh đă nói rất rơ ràng, “phát Bồ Đề tâm, nhất
hướng chuyên niệm”, họ không phát Bồ Đề
tâm, cớ sao văng sanh? Qua câu này, Ngẫu Ích đại sư
đă chỉ rơ: Họ nhất tâm cầu sanh Tịnh Độ,
suốt một đời nhất tâm muốn thấy A Di
Đà Phật, đó chính là Vô Thượng Bồ Đề
tâm. Họ đă phát tâm ấy, nhưng chính họ cũng
không biết. Nếu quư vị hỏi họ có phát Bồ
Đề tâm hay không? Họ nói họ không biết, họ
không hiểu. Bồ Đề tâm là ǵ, họ không biết. Thật
ra, họ đă phát rồi, nên họ đến thế giới
Cực Lạc rồi, đúng là “chỉ
khi nào chứng rồi mới biết”! Họ đến
đó bèn khai ngộ, chẳng c̣n mê hoặc nữa.
“Thập niệm tất
sanh” (mười niệm ắt văng sanh), mười niệm ắt văng sanh là tâm tủy của
bốn mươi tám nguyện của A Di Đà Phật. Đây
là nói rơ: Quư vị thật sự muốn đến Tây
Phương Cực Lạc thế giới chẳng khó tí
nào, mười niệm cũng đi được. Mười
niệm này là niệm lúc nào? Lúc lâm chung, một niệm cuối
cùng là A Di Đà Phật, người ấy sẽ văng sanh. Do
đó mười niệm hay một niệm đều nhất
định văng sanh, sanh đến Tây Phương Cực Lạc
thế giới, chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái,
hạng người nào vậy? Chứng trọn vẹn ba
thứ Bất Thoái. A La Hán chỉ chứng được
một trong ba thứ Bất Thoái ấy, đó là Vị Bất
Thoái. A La Hán là người Tiểu Thừa, các Ngài nhất
định sẽ không thoái chuyển làm phàm phu trong lục
đạo. Trong lục đạo, phía trên gồm hai
mươi tám tầng trời, phía dưới tính đến
A Tỳ địa ngục đều gọi là phàm phu. A La
Hán nhất định sẽ không thoái chuyển, trở lại
làm phàm phu. Đó là điều bất thoái thứ nhất, Vị
Bất Thoái, tức là địa vị không lui sụt. Thứ
hai, Bồ Tát chứng được Hạnh Bất Thoái;
nói cách khác, A La Hán và Bích Chi Phật trên mặt Hành c̣n có thể
thoái chuyển. Hành là ǵ? Độ chúng sanh, chúng sanh khó độ
quá! Thôi đi, đừng độ họ, ngă ḷng rồi. A
La Hán và Bích Chi Phật c̣n ngă ḷng, đến lúc gặp khó
khăn sẽ ngă ḷng. Bồ Tát chẳng ngă ḷng, dù khó
khăn cách mấy Bồ Tát vẫn giúp đỡ chúng sanh. Do
đó, Bồ Tát có Hạnh Bất Thoái. Tuy hạnh đă bất
thoái, nhưng niệm c̣n có thể thoái chuyển, c̣n chưa
ổn định. Bồ Tát đă minh tâm kiến tánh,
đă thành Phật sẽ chứng Niệm Bất Thoái. Niệm
niệm đều hướng về Vô Thượng Bồ
Đề, tức là Vô Thượng Chánh Đẳng Chánh
Giác, đi theo con đường ấy măi cho đến
khi chứng được quả vị Phật, các Ngài
tinh tấn chẳng lùi. Đó là ba thứ Bất Thoái.
Bổn nguyện của Phật Di Đà đă cho biết:
Văng sanh thế giới Cực Lạc, quư vị đều
chứng được ba thứ Bất Thoái ấy. Nói
cách khác, nay chúng ta là phàm phu, một phẩm phiền năo
cũng chưa đoạn, trong thế gian này, ngay cả một
vị Tu Đà Hoàn chúng ta cũng không bằng. Tu Đà Hoàn
là Tiểu Thừa Sơ Quả, A La Hán là Tứ Quả. Giống
như đi học trong trường vậy, Tứ Quả
Tứ Hướng là lớp Tám, từ lớp Một, lớp
Hai, đến lớp Tám mới thành A La Hán. Tu Đà Hoàn là
lớp mấy? Lớp hai. Chúng ta không bằng Tu Đà Hoàn. Thậm
chí lớp Một chúng ta cũng không bằng, người lớp
Một là ai? Người tu hành thật sự, họ mới
có thể lên lớp Hai. Nay chúng ta là lớp Một, không chịu
tu hành thật sự, năm nào cũng ở lại lớp,
không lên lớp nổi, chúng ta là như vậy đó! Lên lớp
không nổi, năm nào cũng ở lại lớp! Trong t́nh
h́nh ấy, gặp được pháp môn Tịnh Độ,
đúng là một bước vọt lên trời, chẳng
bao lâu liền chứng trọn vẹn ba thứ Bất Thoái,
quư vị nói xem có phi phàm hay không? Do vậy, pháp môn này gọi
là pháp môn khó tin. Người như thế nào khó tin? Bồ
Tát không tin, nói “làm ǵ có chuyện thuận tiện như vậy?”
Quư vị quá thuận tiện, người ta tu hành khó nhọc
lắm, tu vô lượng kiếp mới tu tới địa
vị này. Chỉ tu đến A La Hán cũng đă chẳng
đơn giản rồi! Quư vị thấy lớp Hai, tức
là chứng Sơ Quả, từ Sơ Quả đến A
La Hán, bảy lần sanh trong cơi trời và nhân gian, nhân gian thọ
mạng không dài, cơi trời thọ mạng dài, sau bảy lần
lên xuống sẽ chứng A La Hán. Từ A La Hán cho tới
Bồ Tát, tới khi thành Phật, thời gian đúng là quá
dài lâu, đâu có chuyện mười niệm hay một niệm
liền văng sanh như trong Tịnh Tông? Văng sanh thế giới
Cực Lạc liền có địa vị vượt trội
hơn họ, vượt hơn họ quá nhiều, quư vị
nghĩ coi họ có thể tin tưởng hay không? Lời
này làm sao giải thích? Chỉ có thể nói là họ thiếu
phước báo, thiếu thiện căn. Thiếu phước
báo là không gặp [pháp môn Tịnh Độ], thiếu thiện
căn là gặp rồi mà không tin, hoài nghi, bỏ lỡ cơ
hội. Lũ chúng ta có phước báo, người hồ
đồ có phước hồ đồ, không phải là
có ư nghĩa như vậy hay sao? Chúng ta tin tưởng, chẳng
nghi ngờ, người Trung Quốc có câu “kẻ khờ có phước của kẻ khờ”,
người đó thật sự được văng sanh, thật
sự vượt hơn A La Hán, vượt hơn Bồ
Tát.
“Phục
dĩ cụ túc vô lượng bất khả tư nghị trang
nghiêm, cố vạn vật nghiêm tịnh, cùng vi cực
diệu, quang oánh như kính triệt chiếu thập phương,
xúc quang an lạc, cấu diệt thiện sanh” (cũng do đầy đủ vô lượng
công đức chẳng thể nghĩ bàn nên vạn vật
nghiêm tịnh, vi diệu đến cùng cực, sáng láng
như gương, chiếu tột cùng mười
phương. Được quang minh chiếu đến liền
an lạc, cấu diệt, thiện sanh); đây là nói tới sự tốt đẹp trong
thế giới Cực Lạc. Sự tốt đẹp này
do đâu mà có? “Tốt đẹp” là vô lượng trang
nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Những sự trang nghiêm
này ở thế giới Cực Lạc hoàn toàn là biểu thị
pháp, nhằm để dạy học, chẳng phải để
ngắm nh́n mà thôi. Khi sáu căn tiếp xúc cảnh giới
sáu trần [trong cơi Cực Lạc, những cảnh giới
ấy] đều có thể giúp chúng ta đoạn phiền
năo, khai trí huệ, đó là biểu thị pháp! Ở thế
gian này của chúng ta, nếu quư vị hiểu rơ th́ thế
giới này và cơi Cực Lạc chẳng khác nhau, tất cả
đều là biểu thị pháp. Nói thật ra, chúng ta
đă mê quá sâu, tập khí quá nặng, nh́n không thấy, lúc tiếp
xúc bèn sanh phiền năo, chẳng sanh trí huệ. Đến thế
giới Cực Lạc, quư vị được bổn
nguyện và oai thần của A Di Đà Phật gia tŕ, khi
sáu căn tiếp xúc cảnh giới bên ngoài, sẽ sanh trí
huệ, chẳng sanh phiền năo, thật là phi phàm. Do vậy,
tâm quư vị trụ trong thế giới Cực Lạc,
đến đó tâm quư vị sẽ thanh tịnh, nơi
đó là Tịnh Độ. Tâm không thanh tịnh sẽ không
thể trụ ở đó, do chẳng tương ứng với
chỗ đó. Lúc chưa đến đó, tâm chúng ta không
thanh tịnh, niệm cuối cùng là A Di Đà Phật th́ tâm
ấy thanh tịnh, trong tâm chỉ có A Di Đà Phật,
không có các tạp niệm khác, một niệm thanh tịnh
liền cảm ứng Tịnh Độ. Sau khi đến
đó, tâm thanh tịnh ấy sẽ được giữ
ǵn măi măi, không mất đi. Quư vị có thể giữ
được tâm thanh tịnh là nhờ bổn nguyện và
oai thần của Phật gia tŕ, đây là ân đức
không chi sánh bằng của A Di Đà Phật đối với
hết thảy chúng sanh.
Ở nơi đây (thế giới Sa Bà), tại sao A
Di Đà Phật không gia tŕ chúng ta? Ở đây Ngài không gia
tŕ được! V́ sao? Hoàn cảnh nơi đây không tốt,
Ngài gia tŕ quư vị xong, khi quư vị tiếp xúc hoàn cảnh
bên ngoài, tham, sân, si, mạn lại khởi lên. Trong thế
giới Cực Lạc, Ngài gia tŕ, quư vị sẽ tuyệt
đối chẳng khởi ư niệm tham, sân, si, mạn, v́
hoàn cảnh ở đó tốt đẹp. Do vậy, tôi
thường nói với người khác, thế giới Cực
Lạc là đạo tràng do chư Phật Như Lai trong mười
phương thế giới xây dựng để độ
hóa chúng sanh. Đó là một nơi thực nghiệm hoàn thiện
nhất. Do vậy, hết thảy chư Phật Như Lai
đều giới thiệu những chúng sanh khó độ
nhất đến thế giới Cực Lạc, thật
sự từ bi tới cùng cực. Chẳng có vị Phật
nào không tán trợ A Di Đà Phật, giới thiệu đệ
tử cho Ngài, kiếm học sinh cho Ngài, gởi học tṛ
tới thế giới Cực Lạc, đây là việc làm
của mười phương chư Phật. Chư Phật
Như Lai đều tôn xưng A Di Đà Phật là “quang trung cực tôn, Phật trung
chi vương” (ánh sáng tôn quư nhất, vua trong các vị
Phật). Giống như bảy mươi dặm của
Thương Thang (vua Thành Thang nhà Thương) là một
nơi nhằm thí nghiệm. Mấy trăm nước
chư hầu trong thiên hạ đều tôn vua Thành Thang là
thiên tử. Châu Văn Vương dùng một nơi rộng
một trăm dặm để làm một chỗ thí nghiệm,
thực hiện tốt đẹp rồi, tám trăm nước
chư hầu đều tôn ông ta làm thiên tử. A Di Đà
Phật cũng kiến lập một chỗ để làm
thí nghiệm, tức là thế giới Cực Lạc;
mười phương hết thảy chư Phật
Như Lai đều tôn xưng Ngài là “Phật trung chi vương”, điều này đă
ban cho chúng ta một khải thị rất hay. Lúc giảng
kinh ở Tân Gia Ba, tôi đă nhiều lần nói Tân Gia Ba là một
nước nhỏ, một quốc gia đô thị, [tức
là] cả nước chỉ là một thành phố. Đừng
thấy Tân Gia Ba nhỏ mà khinh thường, nếu họ
thật sự học theo A Di Đà Phật, xây dựng Tân
Gia Ba thành một thành phố gương mẫu nhất
trên thế giới th́ người Tân Gia Ba sẽ trở
thành A Di Đà Phật trên địa cầu này. Ở
nơi nhỏ bé ấy có thể thực hiện giáo dục
luân lư, đạo đức, nhân quả, tôn giáo, th́ nơi đó
sẽ trở thành một thành phố hạng nhất trên
thế giới. Nhân dân nước ấy ḥa hài, an định,
phồn vinh, hưng vượng, hạnh phúc mỹ măn, do vậy,
nơi ấy sẽ là hạng nhất. Tôi cư trú ở
đó ba năm rưỡi, do phước báo không đủ
nên tôi phải ra đi. Trong ba năm rưỡi làm việc
ở đó, đoàn kết chín tôn giáo ở Tân Gia Ba thành
người một nhà, giống như anh chị em trong nhà
vậy, Tổng Thống lúc đó là ông Vương Đỉnh
Xương vô cùng hoan hỷ. Ông bà tổng thống đều
là người tốt, cả hai đều đă qua đời.
Chúng ta thật sự học Phật, hăy nên ghi nhớ
lời giáo huấn này, phải làm đến hạng nhất,
mỗi cá nhân phải hành sao cho thành người hạng nhất,
tức người tốt hạng nhất. Người tốt
hạng nhất là như thế nào? Phát tâm Bồ Đề,
nhất hướng chuyên niệm A Di Đà Phật, cả
đời niệm một bộ kinh Vô Lượng Thọ,
một câu Phật hiệu, quư vị sẽ là người
tốt hạng nhất trên thế giới này, trời
đất quỷ thần đều tôn trọng quư vị.
Nếu quư vị có thể buông xuống tự tư tự
lợi, buông xuống danh văn lợi dưỡng, buông xuống
ngũ dục lục trần, buông xuống tham, sân, si, mạn,
quư vị sẽ là gương mẫu của hết thảy
mọi người. Sau đó, quư vị sẽ ảnh
hưởng tới cả gia đ́nh, gia đ́nh quư vị sẽ
là gia đ́nh hạng nhất trên thế giới. A Di Đà
Phật dạy chúng ta như vậy, đó là hoằng pháp lợi
sanh, là chánh pháp trụ thế lâu dài. Chánh pháp trụ thế
lâu dài phải nhờ ai? Nhờ ḿnh, nhờ gia đ́nh ḿnh. Gia
đ́nh tôi là một gia đ́nh được Phật hóa, mọi
người trong nhà đều có thể thực hiện
theo lời giáo huấn của đức Phật trong kinh
điển, chiếu theo nguyên lư nguyên tắc được
dạy trong kinh điển, người lớn kẻ nhỏ
trong nhà, nam, nữ, già, trẻ cùng nhau tuân thủ,
thương yêu ḥa hợp, trở thành một nhà
gương mẫu. Quư vị sẽ ảnh hưởng
thân thích, bạn bè, hàng xóm, sau đó mở rộng ra, làm cho
công ty, cửa tiệm của quư vị trở thành hạng
nhất trong những người cùng ngành nghề. Quư vị
thực hiện những lời dạy trong kinh điển,
thực hiện trong công ty hay cửa tiệm của quư vị,
thực hiện với tất cả nhân viên. Sự nghiệp
của quư vị sẽ là sự nghiệp của Tam Bảo,
trong sự nghiệp ấy sẽ có đầy đủ
vô lượng trang nghiêm chẳng thể nghĩ bàn. Cá nhân
như vậy, gia đ́nh như vậy, mà sự nghiệp cũng
như vậy, làm suốt mười năm, hai mươi
năm, quư vị sẽ ảnh hưởng cả khu vực,
cả thành phố, đến lúc đó, tôi tin tưởng
những thứ nói đến trong kinh đều sẽ xuất
hiện, những thứ ǵ vậy? Vạn vật nghiêm tịnh,
trang nghiêm thanh tịnh.
Năm 2000, chúng tôi từ Tân Gia Ba di dân sang Úc Đại
Lợi, năm tới là ngày kỷ niệm học viện
chúng tôi được thành lập mười năm, chúng
tôi sẽ có một buổi hoạt động [kỷ niệm
ngày thành lập], chúng tôi thật sự đang hướng
tới mục tiêu này. Trong mười năm nay, chúng tôi đă
ḥa hợp với cư dân ở đây, giống như anh
chị em trong một nhà vậy. Cách làm của chúng tôi
cũng tùy duyên, chẳng có mảy may miễn cưỡng nào!
Mười năm trước, nhân ngày học viện
được thành lập, chúng tôi mở tiệc, đăi
đằng hàng xóm ở ba con đường xung quanh học
viện, chúng tôi gởi thiệp mời họ đến dự;
chúng tôi là người mới đến, mời họ
đến dùng cơm tối, thông báo với họ là chúng
tôi mới đến đây cư trú. Chúng tôi là một
đoàn thể Phật Giáo, họ cảm thấy rất mới
mẻ, v́ ở đó lâu nay chưa từng có Phật Giáo,
thành phố nhỏ này chỉ có Cơ Đốc Giáo, chẳng
có Phật Giáo. Chúng tôi tới đó làm hàng xóm của họ,
báo với họ, mọi người đến dùng cơm
rất vui vẻ. Sau đó, nhiều người tới nói
với tôi, họ nói: “Thưa pháp sư, những sinh hoạt
tiệc tùng như vậy có thể làm thêm vài lần nữa
hay không?” Họ rất hoan hỷ, yêu cầu chúng tôi làm thêm
vài lần. Tôi nói tốt lắm, ngay hôm đó chúng tôi quyết
định mỗi thứ Bảy, chúng tôi đặt tên là “buổi
tiệc ấm cúng” [tối thứ Bảy], chiêu đăi miễn
phí mọi người ở thành phố Toowoomba, bất cứ
ai ở thành phố này đều có thể đến dùng
cơm miễn phí. Buổi tiệc tối mỗi thứ Bảy
này đă kéo dài mười năm, hiện nay tất cả
mọi người các tôn giáo khác trong thành phố này đều
đến tham dự, có lúc c̣n đến biểu diễn. Đó
là vạn vật trang nghiêm thanh tịnh.
Những người hàng xóm này rất quư mến chúng
tôi, có nhiều người muốn mua nhà của họ, họ
không bán, họ nói khu vực đó quá tốt, họ thích ở
chỗ đó không nỡ rời khỏi. Chúng tôi trồng
rau ở đó, tới nay cũng đă mười năm,
lúc vừa đến đó chúng tôi liền học trồng
rau. Sau mười năm, vườn rau của chúng tôi càng
ngày càng lớn, hiện nay chúng tôi trồng mười mấy
loại rau. Thông thường người đến dùng
cơm ở học viện khoảng sáu bảy chục
người. Khi nào có lễ lạc đặc biệt, có cả
ngàn người đến dự, vườn rau chúng tôi có
thể cung cấp cho cả ngàn người ăn. Vườn
rau này không dùng thuốc trừ sâu, không dùng phân bón hóa học,
trang nghiêm thanh tịnh. Chúng tôi t́m cách “nói chuyện” với
những con sâu, những côn trùng, tôn trọng chúng nó, gọi
chúng là Bồ Tát, chắp tay cung kính nói với chúng nó,
xưng nó là Bồ Tát Sâu, Bồ Tát Chim, Bồ Tát Kiến. Chúng
tôi dành ra một khoảng đất trong vườn cho sâu
ăn rau, mỗi ngày đều chăm sóc đàng hoàng, dành
riêng cho côn trùng, chúng tôi nói với chúng nó: “Quư vị đến
ăn rau, chúng tôi sẽ cúng dường. Quư vị hăy ăn
những thứ rau trong khoảng đất dành riêng ấy”.
Chim chóc cũng vậy, chim chóc ăn trái cây, chúng tôi trồng
nhiều cây ăn trái, có khoảng hai ba chục loại khác
nhau, chúng tôi chỉ định riêng vài cây dành cho chim ăn,
những cây khác chúng nó tuyệt đối không xâm phạm. Mười
năm chẳng phải là thời gian ngắn, vô cùng thù thắng.
Giao thiệp qua lại với sâu nhỏ, côn trùng nhỏ c̣n
dễ hơn con người! Chúng nó rất nghe lời, giữ
sự tín nhiệm, giữ chữ tín. Con người chẳng
dễ đối xử, chim chóc, côn trùng dễ hơn. Từ
năm nay trở đi, chúng tôi sẽ mở rộng quy mô,
trồng lúa, trồng lúa mạch, trồng những thứ lương
thực chính yếu. Chúng tôi thường nghe các khoa học
báo cáo trong tương lai sẽ có nguy cơ thiếu hụt
lương thực, rất nhiều nơi v́ khí hậu
thay đổi nên thâu hoạch kém. Do vậy, mỗi ngày
chúng tôi hồi hướng công đức tu học cho
mười phương, cầu cho địa phương
này mưa thuận gió ḥa, khu vực này ít tai ít nạn. Chúng
tôi tự gieo trồng lương thực. Ngày nay, đất
đai có những vấn đề nghiêm trọng v́ phân bón
hóa học, thuốc trừ sâu làm hư hết đất
đai, nên những thứ trồng trọt đều nhiễm
nấm bệnh, chẳng tốt lành, đây cũng là nhân loại
tự làm tự chịu. Người học Phật
như chúng ta, học Phật chẳng có ǵ khác ngoài việc
học cung kính, thành tín đối với người, sự,
vật.
“Cố vạn
vật nghiêm tịnh, cùng vi cực diệu; quang oánh
như kính, triệt chiếu thập phương,
xúc quang an lạc, cấu diệt thiện sanh” (nên vạn vật nghiêm tịnh, vi diệu
đến cùng cực, sáng láng như gương, chiếu
tột cùng mười phương. Được quang minh chiếu
đến liền an lạc, cấu diệt, thiện sanh).
“Cấu” (垢) nghĩa là bất thiện, những ư
niệm bất thiện đều bị diệt, hành vi bất
thiện dĩ nhiên chẳng c̣n. Quư vị khởi lên toàn là thiện
niệm; tâm thiện, ư niệm thiện, lời nói thiện,
hành vi thiện đều bắt đầu từ một tí
nhỏ nhoi nơi chúng ta, dần dần mở rộng ảnh
hưởng. V́ cơ sở đă được xây dựng
trong ṿng mười năm nay, mục tiêu của chúng tôi là
những hoạt động trong năm tới, hy vọng
các tôn giáo trong thành phố nhỏ này đều tới tham
dự. Thị Trưởng ủng hộ ư định ấy;
Tổng Lư (Thủ Tướng) cũng khuyến khích chúng
tôi hăy nỗ lực đóng góp cho thành phố nhỏ này. Cư
dân trong thành phố này chỉ có mười vạn người,
hy vọng sẽ làm cho thành phố này trở thành thành phố
gương mẫu trên thế giới. Cư dân trong thành phố
đều là người cùng một nhà, tương thân,
tương ái, chăm sóc, quan tâm, hợp tác với nhau. Khi
quư vị tới thành phố nhỏ này, sẽ cảm thấy
rất thân mật, khác hẳn những nơi khác. Chúng tôi
hy vọng sẽ hoàn thành mục tiêu này trong ba năm hoặc
năm năm; trên cơ sở hiện tại, chúng tôi tin
tưởng sẽ thành công. Ba năm, hay năm năm sau,
nơi đây sẽ trở thành một thành phố ḥa hài, hạnh
phúc, mỹ măn, gương mẫu hạng nhất trên thế
giới. Đầu năm nay, tôi trở về đó, Thị
Trưởng đă thay đổi, ông Thị Trưởng
mới cũng có ư muốn làm cho thành phố này trở thành
một thành phố gương mẫu, chúng tôi vừa nói
chuyện lần đầu liền chí đồng đạo
hợp. Tôi nói lư tưởng đó có thể thực hiện,
chúng tôi sẽ dốc toàn tâm toàn lực để phối hợp,
ông thị trưởng trẻ tuổi ấy rất giỏi.
Kế đó là mở rộng ra, dạy chúng ta học
tập như thế nào để trở thành một điểm
gương mẫu. “Kỳ
hương phổ huân, thập phương thế giới,
chúng sanh văn giả, giai tu Phật hạnh” (Mùi
hương xông khắp, chúng sanh trong mười
phương thế giới ngửi thấy đều tu
Phật hạnh). Đây là nói thế giới Cực Lạc
ảnh hưởng mười phương thế giới
từ một “điểm” này. Trong thành phố nhỏ này, chúng
tôi có một học viện, một “điểm” nhỏ
này ảnh hưởng cả thành phố. Khi thành phố
này thành công, nó sẽ trở thành một thành phố có luân
lư, có đạo đức, có nhân quả, có giáo dục tôn
giáo, dần dần sẽ ảnh hưởng tới cả
tiểu bang Queensland, mở rộng hơn nữa, sẽ ảnh
hưởng cả nước Úc. Mọi người chúng
tôi nỗ lực chẳng giải đăi, thực hiện
hoàn hảo. Khi đă ảnh hưởng một thành phố,
trên thực tế, nó sẽ ảnh hưởng cả thế
giới. Chúng tôi sẽ dùng hệ thống truyền h́nh vệ
tinh thâu h́nh những hoạt động hằng ngày của
dân chúng trong thành phố phát h́nh khắp thế giới. Quư
vị có biết nhằm dụng ư ǵ hay không? Quư vị có biết
hay không? Để quảng cáo! Người trên toàn thế
giới sẽ đến đây tham quan, khảo sát, thành phố
nhỏ này sẽ không cần phải làm những ngành nghề
khác, chỉ làm nghề phục vụ du khách tham quan là
được rồi; họ sẽ xây thêm vài khách sạn
nhỏ, mở vài tiệm ăn, hoàn toàn là thức ăn hữu
cơ, chúng ta sẽ làm sự nghiệp phục vụ, chứ
chẳng làm nghề khác. Du khách sẽ tới hoài không ngừng;
sau khi trở về, chắc chắn sẽ tự động
tuyên truyền [cho mọi người biết] trên thế
giới có một chỗ tốt đẹp như vậy. Bởi
lẽ, hiện nay thông tin vô cùng phát triển, rất thuận
tiện, sau một thời gian ngắn, cả thế giới
đều biết, mọi người sẽ đến “điểm”
nhỏ này để khảo sát, tham quan, thăm viếng, học
tập, thành phố này sẽ nổi tiếng. Người
vui mừng nhất là ông thị trưởng, chánh sách của
ông ta sẽ thành công. Trong tương lai, nếu tranh cử
Tổng Thống chắc chắn sẽ được nhiều
phiếu nhất. Khi ông ta làm Tổng Thống, không phải
là cũng sẽ mở rộng ra cả nước hay sao? Sau
đó cũng sẽ ảnh hưởng cả thế giới.
Do vậy, thế giới sẽ thật sự an định
ḥa b́nh, hóa giải tất cả xung đột, mâu thuẫn,
tất cả đều bắt đầu từ “điểm”
này. Kinh Vô Lượng Thọ cống hiến, dạy chúng
ta [những bài học quư giá ấy], chúng ta học xong, phải
thật sự thực hiện. Làm những chuyện tốt
này, đấy là công đức chân thật, dùng công đức
này hồi hướng cầu sanh Tịnh Độ, A Di
Đà Phật ở thế giới Cực Lạc sẽ vỗ
tay hoan nghênh quư vị tới đó, quư vị quả thật
đúng như người hiện nay thường nói “học
tập sống động, áp dụng sống động”,
thật sự đem lại lợi ích cho chúng sanh, thật
sự làm cho Phật pháp từ nơi này được phát
triển rộng ra.
Hôm nay đă hết giờ, chúng tôi chỉ có thể
nói tới đây, tốt lắm, xin cám ơn quư vị.
Tịnh Độ Đại Kinh Giải
Diễn Nghĩa
Phần 97 hết